Nghệ thuật
11.5.2006
Nguyễn Đình Đăng
Một
thế giới khác
Tưởng nhớ họa sĩ Mai Văn Hiến
|
Họa sĩ Mai Văn Hiến vẽ tranh Tết
(ký họa bút chì năm 1987 của Nguyễn Đình Đăng) |
"Một vũ trụ
khác" là nhan đề buổi thuyết trình của giáo sư Robert Laughlin (giải Nobel
vật lý năm 1998) [1] tại Viện Nghiên cứu Vật lý và Hóa học (RIKEN) [2] chiều
nay. Tại buổi thuyết trình này GS Laughlin không đi sâu vào chuyên môn,
mà trình bày những suy nghĩ mang tính triết học của ông về các định luật tự
nhiên trong vũ trụ. Ông không hề chiếu một phương trình vật lý hay công
thức toán học nào lên màn ảnh, mà chỉ cho xem… các biếm họa do chính ông vẽ để minh
họa. Đó là một trong những yếu tố khiến buổi thuyết trình của
ông có sức lôi cuốn đặc biệt.
Vâng, các hình vẽ dí dỏm như có ma lực đẩy con người xích lại
gần nhau. Đây có lẽ cũng là lý do vì sao những người “ngoại đạo” dễ lên
tiếng phán xét về hội họa hơn là về khoa học. Phải chăng người
ta có xu hướng cho rằng hễ cái gì có thể nhìn thấy bằng mắt thường tất có thể
và phải dễ dàng hiểu được mà không cần nhiều kiến thức uyên bác?
Tôi suy nghĩ lan man như vậy trên đường quay về phòng
làm việc của mình sau buổi thuyết trình của GS Laughlin. Lướt
qua trang web điểm báo trong nước trước khi tiếp tục các tính toán dang dở, tôi
bỗng lặng người khi đọc bài “Lại vắng đi một khuôn mặt hội họa” đăng trên báo Lao
Động để nhận cái tin họa sĩ Mai Văn Hiến vừa đột ngột ra đi.
Vũ trụ này có vẻ như đã được sắp đặt từ trước bởi một đấng vô
hình nào đó, vì thường có những sự trùng hợp lạ kỳ. Như hôm nay đây buổi
thuyết trình đầy hình biếm họa của GS Laughlin trước đó một giờ rưỡi đồng hồ đã
như một khúc dạo đầu cho cái tin ra đi của ông Hiến, một họa sĩ nổi tiếng một
phần vì các hình minh họa dí dỏm, vì những bức sơn dầu như những bài thơ về cuộc
chiến tranh, một người có lối nói chuyện lôi cuốn không thua gì vị GS người Mỹ
đã đoạt giải Nobel kia. Và còn cái tên của buổi thuyết trình hôm nay nữa: “Một
vũ trụ khác”, tuy nó không liên quan gì đến lẽ sinh tử của một con người, nhưng
đối với tôi lúc này, nó bỗng dưng vang lên như hồi chuông ngôn ngữ báo hiệu người
mà tôi vốn coi như một người bác đồng thời là một người bạn đã từ bỏ thế giới
này để đi sang thế giới bên kia, một thế giới khác, thậm chí một vũ trụ khác.
*
Tôi được gặp họa sĩ Mai Văn Hiến lần đầu tiên vào năm 1985,
khi công cuộc đổi mới bắt đầu. Năm đó tôi vừa từ Liên Xô trở về, và muốn
được quen biết các họa sĩ trong nước vì tôi cũng vẽ vời đôi chút trong thời
gian học tại Nga, đã có một số triển lãm cá nhân, và được một vài tờ báo ở
Moscow nhắc đến. Hai họa sĩ đầu tiên mà tôi có hân hạnh được
gặp là họa sĩ Mai Văn Hiến và Bùi Xuân Phái. Tôi còn
nhớ khá rõ ngày tôi tới Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt
“Lúc nào rỗi tới nhà Hiến chơi!”
Vài hôm sau tôi tới thăm ông. Đó là
một buổi tối mất điện. Ông ngồi cạnh bàn nước trong ánh đèn dầu vàng
vàng run rẩy. Căn phòng nhỏ hẹp, bày biện đơn sơ, không có tranh treo trên tường,
không có toile đang vẽ chưa xong bày trên giá vẽ, thậm chí đến cả giá vẽ cũng
không có nốt. Căn phòng hoàn toàn không giống một studio của một họa gia tên tuổi
như ông. Tôi nhớ hồi còn bé, có lần tôi được dẫn đến xưởng vẽ của một họa sĩ thời
thượng ở Hà Nội: một tòa nhà trắng 3 tầng, phòng khách rộng mênh mông, ghế
salon bọc da ngồi lút đít không muốn đứng lên nữa, những bức sơn mài khổng lồ vẽ
Chùa Một Cột được chủ nhân quảng cáo là đã được ông đắp bao nhiêu vàng lá lên
trên. So với studio đó thì căn phòng của người đã vẽ nên một trong những mẫu giấy
bạc đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ giống như cái góc của một nhà
kho. Bao nhiêu năm trôi qua sau nàỵ, kể cả sau khi Việt Nam trao tặng ông Giải
thưởng Nhà nước, căn phòng đó vẫn hầu như không thay đổi. Ông vui vẻ bắt tay tôi và bắt đầu câu chuyện như sau:
“Xin lỗi anh bạn trẻ nhé, Hiến không có tranh cho cậu xem. Tranh
bán hết rồi!”
Lối nói chuyện của ông khiến tôi thỉnh thoảng lại phải phá
lên cười, còn ông thì vẫn không hề biến sắc mặt. Người
ta nói đó là nghệ thuật của những người có tài hài hước. Tuy xấp xỉ tuổi cha tôi, tính ông vẫn rất trẻ trung. Có họa
sĩ hơn tôi 10 tuổi nhưng luôn gọi ông là “anh Hiến” xưng “em”. Ông chấp nhận tất. Ông giới thiệu tôi với một họa sĩ khác
như sau:
“Ngày mai Bảo tàng Mỹ thuật khai mạc triển lãm trại sáng tác Đại Nải. Hiến sẽ
giới thiệu cậu với một cậu này, cũng học ở Liên Xô về đấy, vẽ ‘nuýt’ [3] hay
lắm.”
Nói rồi ông uốn bàn tay với những ngón tay đẹp và dài, bắt chước thế cầm hoa
khá… đặc biệt của cô người mẫu khỏa thân trong bức sơn dầu “Hòa bình” của họa
sĩ Lê Huy Tiếp. Thế là qua ông, tôi và anh Tiếp đã trở thành
những người bạn. Sau này, trong mỗi chuyến tôi về thăm
nhà, hai người đầu tiên mà tôi tới thăm bao giờ cũng là cụ Hiến và anh Tiếp.
Một trong những kỷ niệm mà tôi trân trọng là những buổi uống
rượu ngắm tranh tại nhà tôi những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90.
Hồi đó mỗi khi vẽ xong một bức tranh to tôi thường tổ chức một
buổi gặp mặt nhỏ và mời một số họa sĩ quen biết tới ngắm tranh, uống rượu, và
bàn luận. Những vị hay lui tới là cụ Hiến, cụ Phái và anh Tiếp. Ngoài ra còn một số vị khác. Nhiều khi cuộc
chuyện trò trở nên rất sôi nổi và kéo dài tới nửa đêm. Có lần tại điểm
cao trào, trong khi than phiền về chất lượng hội viên Hội NSTH Việt Nam, một họa
sĩ tên tuổi nói:
“Theo tôi, chỉ nên giữ lại 50% số hội viên Hội NSTH Việt Nam hiện nay!” (Lúc đó toàn hội chỉ có khoảng 500 hội viên, tức chỉ bằng 1/3 số hội
viên hiện nay).
Cụ Hiến trả lời ngay:
“Trong 50% được giữ lại ấy có Hiến đấy nhé!”
Nói rồi ông quay sang phía tôi hóm hỉnh nháy mắt. Tôi không
nghe thấy ông chỉ trích ai nặng lời bao giờ. Phê bình nặng nhất của ông
đối với một họa sĩ tôi nhớ đại loại là “cũng lăng
nhăng thôi mà”.
Ngày tôi nộp đơn vào Hội NSTH Việt
*
Thế rồi ông bị tắc tĩnh mạch chân, không đi lại được, chỉ ngồi
trên giường. Tôi về nước tới thăm, thấy ông gày và già
đi nhiều. Duy chỉ có ánh mắt tinh anh, nụ cười hóm hỉnh,
và lối nói chuyện hài hước của ông thì có vẻ vẫn không thay đổi.
Đầu năm nay mẹ tôi nhắn tin “cụ Hiến bị sưng phổi, phải nhập viện, sợ khó qua
khỏi”. Nhưng sau đó ít lâu tôi được báo là ông đã xuất viện về
nhà. Tôi nuôi hy vọng sẽ lại được gặp ông và rước ông đến xem triển lãm
“Những tầm nhìn từ Nhật Bản” mà chúng tôi sẽ tổ chức cùng với 12 nghệ sĩ Nhật Bản
vào tháng 11 này tại Hà Nội. Chắc ông sẽ vui lắm. Nào
ngờ cái tin trên báo Lao Động ngày hôm nay đã làm dự định của tôi sụp đổ
tan tành.
Có một điều lạ là khi hàn huyên với nhau, chúng tôi ít nói về
nghề nghiệp hội họa. Có nhiều điều người ta chỉ có thể cảm thấy bằng trực
giác mà không cắt nghĩa hay bắt chước được. Có người nói cho dù công nghệ hiện
đại có sáng chế ra một video-camera cực siêu có thể thu
toàn bộ cử động của mười ngón tay của Horowitz [5] khi ông chơi piano, rồi quay chậm lại để phân
tích, bắt chước y hệt, cũng không thể tái tạo được những âm thanh kỳ diệu của
Horowitz. Nghệ thuật là một thế giới khác với thế giới chịu sự
chi phối của các định luật vật lý trong vũ trụ mà GS Laughlin có nhắc tới trong
buổi thuyết trình của mình. Nghệ thuật là tiếng nói của
nhân cách của một nghệ sĩ. Cứ mỗi lần nghĩ về nhân cách trong nghệ thuật,
ông Hiến lại hiện lên trong tôi với nụ cười hóm hỉnh, cái nhìn bao dung, và một
bộ óc rộng mở để nhẹ nhàng chấp nhận kể cả những gì mà nhiều người cực đoan coi
là chướng tai gai mắt.
Tôi thấy buồn vì thế giới này đã mất đi một nhân cách như vậy.
© 2006 talawas
[1]Robert Laughlin (sinh năm 1950) –
nhà vật lý lý thuyết Mỹ, đoạt giải Nobel năm 1998 (cùng với H.L. Störme và D.
C. Tsui) vì đã giải thích được hiệu ứng Hall lượng tử phân số.
[2]RIKEN
- viện nghiên cứu quốc gia hàng đầu của Nhật Bản và thế giới, có cơ sở trung
tâm tại thànhg phố Wako, ngoại ô Tokyo, nhiều chi nhánh tại Nhật, một chi nhánh
tại Hoa Kỳ và một chi nhánh khác tại Anh.
[3]nuýt – khỏa thân nữ (phiên âm từ tiếng Pháp
“nude”)
[4]mét
- bậc thầy (phiên âm từ tiếng Pháp: “maître”)
[5]Vladimir
Horowitz (1904 – 1989) - nghệ sĩ piano người Nga-Mỹ gốc Do Thái, được coi là một
trong những nghệ sĩ piano vĩ đại nhất của thế kỷ 20.