Nghệ thuật
24.11.2006
Nguyễn Đình Đăng
Hà Nội trong mắt tôi
“Khi mê bùn chỉ là bùn,
Ngộ rồi mới biết trong bùn có sen.”
(Thơ Nguyễn Bảo Sinh)
Trong dịp về Hà Nội tháng 9 năm ngoái tôi hỏi hoạ sĩ Lê Huy Tiếp - chủ tịch hội
đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam - về khả năng tổ chức một triển lãm tại
Hà Nội nhằm giới thiệu một số hoạ sĩ Nhật Bản hiện nay. Theo chủ quan của tôi
triển lãm này ít nhất sẽ có hai điều bổ ích: một là để các hoạ sĩ Việt Nam biết
thêm về sáng tác của một số hoạ sĩ Nhật Bản hiện đại, hai là để một số hoạ sĩ
Nhật tận mắt nhìn thấy và làm quen với các hoạ sĩ và hội hoạ Việt Nam. Sau 12
năm sống ở Nhật tôi thấy người Nhật nói chung và các
hoạ sĩ Nhật nói riêng không mấy ai biết đến văn học nghệ thuật của Việt
Sau khi được ông Tiếp cho biết thủ tục tổ chức triển lãm,
quay về
Một năm trời trao đổi email với Hội Mỹ thuật Việt Nam (MTVN) – nơi đứng ra tổ
chức triển lãm – tôi rất cảm kích bởi thiện chí của Hội thông qua nhiệt tình và
tính năng động của Chánh Văn phòng Hội, bà Mai Ngọc Oanh, một người bạn lâu năm
của tôi, con gái của cố danh hoạ Mai Văn Hiến. Cho đến ngày hôm nay, tôi có thể
khẳng định rằng nếu không có sự ủng hộ rất tích cực của các anh chị em Hội
MTVN, nhà triển lãm 16 Ngô Quyền và Trung tâm Mỹ thuật Đương đại (TTMTĐĐ), triển
lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản” của chúng tôi khó có thể thành công.
Trong bài viết này tôi sẽ kể lại một số tình tiết “lý thú” mà tôi đã chứng kiến
tại Hà Nội trong dịp diễn ra cuộc triển lãm nói trên.
1. Hải quan Việt Nam làm sai quy định của chính Tổng cục Hải quan
Mặc dù tôi đã cảnh báo các bạn Nhật, để tránh rắc rối với hải quan Việt Nam,
nên mang tranh theo người khi sang Việt Nam chứ không nên gửi, bốn người vẫn gửi
tranh sang Hà Nội bằng đường EMS (Express Mail Service) tức dịch vụ bưu điện
chuyển phát nhanh. Họ nói rằng họ từng gửi tranh bằng
Ngày 26 tháng 10 năm 2006, sau 9 ngày, các thùng tranh gửi
2. Vietnam Airlines đổi mới
Ngoài những vụ tai tiếng gần đây về chuyện mua động cơ nọ cắm vào máy bay kia,
cho con cháu các quan chức đi học sai chính sách, phi công “ngủ quên” khi cầm
lái, hay ông tổng giám đốc mắng phóng viên một hãng thông tấn uy tín quốc tế là
vô văn hoá và ra câu “tuyên ngôn” à la Descartes “Tôi không thích, vì tôi chưa
thích” v.v., hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines vốn thường bị hành khách
kêu ca về thái độ phục vụ. Tôi cũng đã từng được chiêm ngưỡng
vẻ mặt khinh khỉnh, nghe những câu nói trống không của các cô tiếp viên xinh đẹp
của Vietnam Airlines trong những lần bay trước. Song lần
này thì có khác. Phải công nhận Vietnam Airlines đã có
một bước tiến rõ rệt trong thái độ phục vụ. Các cô tiếp viên ân cần chỉ
bảo cho tôi cách mở bàn ăn, thay tai nghe bị hỏng, gọi
tôi bằng chú, gọi vợ tôi bằng cô, xưng cháu. Khi phát hiện ra toàn bộ màn hình
của hàng ghế chúng tôi ngồi bị trục trặc, không xem phim được, một nam tiếp
viên đã ngồi hẳn xuống trước mặt chúng tôi xin lỗi: “Cháu thành thực xin lỗi cô
chú. Tàu của chúng cháu phải sử dụng quá nhiều nên không kịp
sửa”. Anh ta nhắc đi nhắc lại như vậy nên chúng tôi
đành chịu chứ biết làm sao bây giờ. Nghe đâu các hãng
hàng không bên Mỹ khi xảy ra trường hợp tương tự thì ngoài lời xin lỗi, còn đưa
cho hành khách một voucher để nhận 30 đô-la bồi thường. Tuy nhiên chắc
phải đợi vài APEC nữa diễn ra tại Việt
3. Đổi mới tại sân bay Nội Bài
Tôi đã đi nhiều nước, nhưng chưa nước nào lại có nhân viên kiểm tra hộ chiếu nhập
cảnh từng làm tôi khó chịu như Việt
Sau sự cố với EMS tôi đã chuẩn bị bản sao luật hải quan, quy định của Tổng cục
hải quan, và giấy phép triển lãm của Vụ Mỹ thuật để sẵn sàng “chiến đấu” với
các nhân viên hải quan nếu họ gây khó dễ cho tranh tôi mang theo. Thế nhưng, lạ chưa, họ không làm bất cứ một động tác gì ngoài ra hiệu
cho chúng tôi đi qua. Người ta nói đó là nhờ có APEC.
Sau hội nghị thì sẽ lại đâu vào đấy như cũ. Vậy chúng ta hãy chờ xem.
4. In giấy mời và đặt khung tranh tại Hà Nội
Lúc đầu chúng tôi định in giấy mời và phong bì tại
Vì mang cả khung tranh sang Hà Nội sẽ rất nặng, nếu gửi
Tối 6/11 chúng tôi lắp khung tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền.
Có lẽ đó là một trong những giờ phút hạnh phúc nhất của triển
lãm vì ngày khai mạc đã đến rất gần kề để người ta còn có thể tưởng tượng và hồi
hộp hy vọng, nhưng nó vẫn chưa xảy ra để người ta phải mệt mỏi và tiếc nuối.
Khung và tranh được bày la liệt ra sàn. Mặt trước của
các khung được đánh nhẵn và sơn phết nói chung là đẹp,
nhưng phía sau (phần người xem không nhìn thấy) thì tạm bợ xù xì. Mấy hôm sau,
trên đường đi tham quan vịnh Hạ Long, một hoạ sĩ Nhật, nhìn những ngôi nhà bên
đường, hỏi: “Tại sao nhà ở Việt
5. Trung tâm Mỹ thuật Đương đại (TTMTĐĐ)
TTMTĐĐ ở 621 đường La Thành và Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền là hai cơ sở của Hội
MTVN. Tám trong số 12 nghệ sĩ tham gia triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản” ở tại
TTMTĐĐ. Trước khi chúng tôi đến Hà Nội, một người bạn thân của tôi từ Sài Gòn gửi
e-mail cho tôi viết: “Em nghe nói anh định cho các vị khách Nhật của anh ở
hotel 6 USD một tối phải không? Coi chừng bị rệp cắn đấy
nhé!” Tôi chưa từng tới TTMTĐĐ nên ngay sau khi về tới
Hà Nội, ngày 1/11 tôi đã đi cùng bà Chánh Văn phòng Hội MTVN đến trung tâm
ngay.
Quang cảnh tôi nhìn thấy khi đến nơi làm tôi hơi bị “choáng”: Cả toà nhà ở
trong tình trạng đang được sửa chữa. Cầu thang từ tầng 1 đến
tầng 3 đầy bụi đất, tường sơn chưa xong, mùi sơn nồng nặc. Các phòng nơi
các hoạ sĩ Nhật sẽ ở khá lộn xộn: những chiếc giường được tháo ra và đang được
đánh vec-ni dở dang. Trong phòng hội thảo, nơi sẽ diễn ra cuộc giao lưu với các
nghệ sĩ tham gia triển lãm vào sáng 9/11, bàn ghế tứ tung,
một loạt đầu tượng bằng đồng đen xì đứng trong một góc ngay cạnh cửa ra vào. Bà
Oanh cũng có vẻ lo nên nói:
“Thế này thì có kịp không?”
“Yên tâm! Mùng 7 họ mới sang, còn một tuần nữa kia mà.
Thứ Hai (6/11) sẽ dọn, cạo sơn toàn bộ cầu thang.”
“Mùng 7 là thế nào? Mùng 5 họ sang rồi!”
"Sao bảo mùng 7?"
“Mùng 7 đâu! Đã gửi fax báo rõ lịch sang cho trung tâm
rồi kia mà!”
“Thế à! Thế mà đây cứ tưởng mùng 7 mới sang! Thế mấy
giờ ngày mùng 5 họ sẽ sang?”
“3 giờ chiều!”
“Thế thì anh em sẽ phải dốc toàn lực ra mà làm cho kịp thôi!”
Chiều mùng 4/11, để cho chắc ăn tôi và bà Oanh lại đến
TTMTĐĐ một lần nữa. Lần này quang cảnh khác hẳn, như có một điều thần kỳ vừa xảy
ra! Cổng vào đã được sơn xanh. Cầu
thang đã được lau sạch. Tường treo đầy tranh. Các phòng ở của các hoạ sĩ Nhật đã khá tinh tươm, với đầy đủ khăn
bông, nước nóng lạnh, hoa trên bàn. Giám đốc TTMTĐĐ Đoàn Hồng nói:
“Gớm, hôm qua thì Chủ tịch Hội đồng Mỹ thuật đến xem, trưa nay ông chủ tịch Hội
đang họp Quốc hội cũng chạy về thị sát, bắt thay tất cả các khăn mặt bằng khăn
bông to, bây gìờ lại đến Chánh văn phòng và đại diện đoàn Nhật đến kiểm tra làm
anh em chúng tôi hơi phải ‘Lê Huy Tiếp’ (“tiếp đón”) đấy.”
Tại sảnh tầng 2 các tượng chân dung đồng đen đã được xếp ngay ngắn trên bệ.
TTMTĐĐ cho biết đây là chân dung các cụ hoạ sĩ được Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Trung tâm định làm một lư hương đồng đặt trước hàng tượng
cho thêm phần trang nghiêm, nhưng vì ba cụ trong số đó vẫn còn sống nên tạm thời
chỉ để lọ hoa.
Phòng hội thảo cũng đã được bày biện lại. Máy chiếu LCD của trung tâm bị cháy bóng mà Hội chưa cấp tiền mua
bóng mới, nên sẽ phải đi thuê máy. Lo là nếu không thử máy trước với PC
của tôi thì đến buổi giao lưu sẽ gặp trục trặc, tôi đã tự tra cứu các địa chỉ
cho thuê LCD projector ở Hà Nội và tìm ra một công ty ở rất gần TTMTĐĐ. Tôi đến tận nơi để thử máy. Giám đốc rất
trẻ. Cậu ta niềm nở nói:
“Giá thuê của chúng em là 150.000 đồng. Còn nếu anh muốn lấy hoá đơn đỏ để cơ
quan thanh toán thì thích ghi ‘vênh’ bao nhiêu em sẽ ghi cho anh và chúng em sẽ
thu 15% giá thuê.”
Cách diễn giải “trong sáng” và “thoáng” của cậu làm tôi rất ấn tượng. Một đồng
nghiệp hoạ sĩ Hà Nội đã đọc cho tôi hai vế đối như sau mà ông bảo tôi phải lấy
giấy bút ghi vào để khỏi quên:
Đông qua, Xuân về, cũ cũng mặc, mới cũng mặc, cũ mới đều mặc.
Năm hết, Tết đến, to cũng ăn, nhỏ cũng ăn, to nhỏ đều ăn.
Rồi ông ta than: “Như thế thì chống tham nhũng thế nào được!”.
Khi tôi nhận xét là thấy Quốc hội dạo này đấu tranh hăng ra phết đấy chứ thì
ông ta lại nói:
“Hà! Quốc hội bây giờ cũng điện tử hoá nhé. Các đại biểu
Quốc hội muốn phát biểu thì phải ấn nút đăng ký nhưng số ý kiến lại bị hạn chế
đến 20 nên nếu ông là người thứ 21 thì có ấn nút cũng vô tác dụng. Vì thế mới
có câu rằng: ‘Các đại biểu Quốc hội chỉ sờ nhưng không ấn, vì có ấn cũng không
vào’.”
Chiều mùng 5/11 đoàn nghệ sĩ Nhật đầu tiên tới Hà Nội.
Hội MTVN cho xe và cử người ra tận sân bay Nội Bài đón
đoàn. Tôi tới TTMTĐĐ để gặp họ. Sau
khi nhận phòng, việc đầu tiên là đổi tiền. Về việc này, một hoạ sĩ phụ
trách tại TTMTĐĐ đề xuất:
“Có 3 phương án. Phương án 1: các bạn Nhật tự ra phố đổi tiền. Họ sẽ bị ‘chém đẹp’ vì họ là người ngoại quốc. Phương án 2:
ông Đăng dẫn họ đi đổi tiền. Cũng vẫn bị thiệt, vì trông ông
nó biết ngay là ‘Việt kiều’. Phương án 3: các vị không phải đi đâu hết,
cứ đứng đây và đưa tiền cho tôi. Tôi sẽ đi đổi cho các vị theo
đúng giá hối đoái hiện nay.”
Tất nhiên là chúng tôi theo phương án 3. Các hoạ sĩ Nhật đưa ngoại tệ cho hoạ sĩ Việt
6. Quán “Cây Sơn”
Tôi được nghe nói về Saeko Ando từ mấy năm về trước khi cô triển lãm tranh sơn
mài tại gallery Tự Do ở Sài Gòn. Sau khi học sơn mài từ các
nghệ nhân tại Hà Nội vài năm cô đã cùng một số hoạ sĩ trẻ mở gallery Cây Sơn tại
135 Nghi Tàm. Có lẽ cô Ando sẽ đi vào lịch sử mỹ thuật Việt
|
Học viên ngoại quốc đang
tập làm tranh sơn mài tại “Cây Sơn” |
Trước ngày khai mạc triển lãm, tôi đưa các hoạ sĩ Nhật Bản đến
thăm xưởng vẽ Cây Sơn của cô Saeko Ando. Cô
Ando là một phụ nữ xinh đẹp và thông minh. Cô nói tiếng
Việt khá giỏi. Cách phát âm tiếng Việt hơi lơ lớ lại
khiến cô càng dễ thương hơn. Trong một buổi sáng cô giới thiệu cho chúng
tôi về xưởng vẽ Cây Sơn. Cô nói rằng ở Việt Nam cô thấy có nhiều người vẽ sơn
mài giỏi về kỹ thuật nhưng lại yếu về hội hoạ, còn những hoạ sĩ sơn mài giỏi về
mặt hội hoạ thì lại yếu về kỹ thuật. Cô muốn vẽ được những bức
sơn mài đạt độ chín cả về kỹ thuật lẫn hội hoạ. Chúng tôi được mục kích
các học trò người Nhật, Italia, Ấn Độ,… của xưởng Cây Sơn miệt mài gắn vỏ trứng,
mài sơn v.v. Chúng tôi ăn trưa ở nhà hàng trong xưởng. Giữa Hà Nội hỗn độn xe cộ,
ô nhiễm vì khói xăng, bụi bặm, tiếng ồn của còi xe bóp vô tội vạ, của tiếng người
í ới gọi nhau đủ loại, quán Cây Sơn với những mái lá, vườn cau, ánh nắng xiên
xiên trong một không gian tịch mịch, lấp loáng màu tranh sơn mài treo trên các
bức tường, bỗng chốc biến thành một vườn Địa Đàng.
Tôi hỏi cô Ando về Việt
“Ở Nhật mọi người sống theo luật pháp. Cái gì không làm được đối với một người thì cũng không làm được với
mọi người. Ở Việt
Nếu Ando hỏi tôi về Nhật câu trả lời của tôi có lẽ cũng tương tự như vậỵ Tôi sẽ
nói:
“Ở Việt
7. Khai mạc triển lãm & giao lưu
Ba giờ chiều ngày 8/11 Hội MTVN tổ chức họp báo triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật
Bản”. Tôi tưởng tượng cuộc họp báo sẽ có nhiều người hỏi liên
tiếp và các hoạ sĩ sẽ không kịp trả lời. Đến khi họp
báo bắt đầu, tôi mới lấy làm ngạc nhiên khi thấy các phóng viên đến dự họp báo
đều rất trẻ. Họ khá rụt rè ngồi mãi ở hàng ghế dưới, để
dành hàng ghế đầu cho các bậc cao niên. Khi được hỏi
có câu hỏi gì không, tất cả các nhà báo đều im lặng, như các sinh viên (châu Á)
khi bị thày giáo hỏi vậy. Cuối cùng một nhà báo cất tiếng
hỏi một nhiếp ảnh gia Nhật về cảm giác của ông ta sau 13 lần đến Việt
Bốn giờ rưỡi triển lãm khai mạc. Rất
long trọng. Có phát biểu, tặng hoa, cắt băng, sâm banh
và rượu vang đỏ. Khá đông người tới dự, chen
vai thích cánh, trong đó ngoài một số hoạ sĩ còn có cả nguyên phó chủ tịch nước,
thứ trưởng văn hoá, thứ trưởng ngoại giao, v.v., rồi các bạn bè, họ hàng của
tôi. Trong số các bạn và người quen của tôi, ngoài các hoạ sĩ hội viên Hội
MTVN, còn có nhạc trưởng người Nhật Tetsuji Honna, các nghệ sĩ cello Ngô Hoàng
Quân và Trần Thị Mơ, các đồng nghiệp vật lý, trong đó có giáo sư người Pháp
Pièrre Daruillat và vợ, ông Nguyễn Lân Bình – cháu nội của cụ Nguyễn Văn Vĩnh,
đến cùng với đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy và cameraman Nguyễn Sĩ Bằng. Tôi sẽ
còn viết về họ ở bên dưới. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đến cùng với nhà thơ Nguyễn
Bảo Sinh. Trong một bài viết của mình tôi từng trích dẫn câu thơ bất hủ của ông
Sinh: “Tự do sướng nhất trên đời/ tự lừa lại sướng hơn mười tự do”, nay
được ông tặng cả tập thơ, tôi lấy làm cảm kích lắm. Các phóng
viên vây quanh tôi và hỏi nhiều câu hỏi liên quan đến một số bức tranh của tôi.
Tôi thấy phần lớn họ thiếu kiến thức về mỹ thuật và lại không
chuẩn bị trước khi đến triển lãm. Họ hỏi những câu rất
cụ thể như “Anh vẽ cái này nhằm nói lên cái gì?”, “Cái này có nghĩa là gì?” và
có vẻ như chỉ chờ những câu trả lời của chính tác giả để chép lại đăng báo.
Tôi cố diễn giải cho họ hiểu là mục đích cuối cùng của mọi nghệ thuật là cái hiệu
quả (effect) gây cho người thưởng thức, rằng những người xem khác nhau, tùy
theo trình độ học vấn, nền tảng văn hoá, kinh nghiệm sống v.v. sẽ có những rung
động khác nhau trước cùng một bức tranh, rằng nếu tôi có thể diễn tả được hội
hoạ và âm nhạc bằng lời văn thì tôi chẳng cần hội hoạ và âm nhạc làm gì nữa
v.v. Xem ra cách giải thích của tôi không có mấy sức thuyết phục đối với các cô
phóng viên trẻ đẹp.
9 giờ sáng ngày 9/11 TTMTĐĐ tổ chức giao lưu với các nghệ sĩ của triển lãm.
Phòng toạ đàm trang hoàng đẹp đẽ với một pa-nô to treo ở góc nhà, in màu theo mẫu do tôi vẽ. Tôi nhớ lại lần triển
lãm cá nhân cuối cùng của tôi tại Việt
|
Khai mạc triển lãm “13 tầm
nhìn từ Nhật Bản” tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền – Hà Nội, |
Tại buổi
toạ đàm, hoạ sĩ Saito Nozomi thuyết trình về hội hoạ Nhật Bản ngày hôm nay, nhiếp
ảnh gia Osami Arikata nói về nhiếp ảnh tại Nhật Bản, hoạ sĩ Fujita Toshiya nói
về màu đỏ trong quan niệm và kỹ thuật sáng tác của ông. Sang
phần thảo luận, thính giả yêu cầu tôi nói về đời sống hội hoạ ở
8. Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh)
Đó là tên bức sơn dầu tôi vẽ năm 2001 để tưởng nhớ hai đại diện kiệt xuất cho sự
truyền bá chữ Quốc ngữ ở Việt Nam, Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh. Đây
là một trong bảy bức tranh tôi đem về Hà Nội triển lãm cùng với các nghệ sĩ Nhật
Bản lần này, trùng với lần thứ 70 ngày giỗ cụ Vĩnh. Từ nhỏ tôi đã được nghe bố
tôi kể nhiều về “Tân Nam tử” Nguyễn Văn Vĩnh khi mà sách báo chính thống tại miền
Bắc Việt Nam còn gọi Alexandre de Rhodes là gián điệp và Nguyễn Văn Vĩnh là bồi
bút của Pháp.
Trong một lần về thăm nhà vào năm 2000, tình cờ tôi được đọc
một số tài liệu cũ về thân thế và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh do ông Nguyễn
Kỳ - một trong mười con trai của cụ Vĩnh - sưu tầm. Lần đầu tiên tôi được
biết đến cái chết của ông Vĩnh (năm 1936) trong một con thuyền độc mộc trên một
dòng sông gần Sepole (Lào) nơi ông sang tìm vàng sau khi toà soạn của ông vỡ nợ.
Trong tay ông còn nắm chặt một cây bút và một cuốn sổ.
Ông đang viết dở thiên phóng sự “Một tháng với những người đi
tìm vàng”.
Câu chuyện đầy huyền thoại về cái chết của cụ Vĩnh làm tôi đặc
biệt xúc động. Ngay lập tức tôi đã hình dung ra bố cục của bức tranh.
Quay trở lại
|
Nguyễn Đình Đăng Sự
ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh)
2001, sơn dầu, 65 x 80 cm |
Sau khi triển lãm khai mạc vài ngày, ông Nguyễn Lân Bình mời
tôi đến thăm gia đình ông. Tại đây tôi được chiêm ngưỡng và ngồi trên
một trong hai chiếc tràng kỷ do chính cụ Nguyễn Văn Vĩnh đặt làm năm 1919. Đôi tràng kỷ này rất đặc biệt. Hình dáng thì có vẻ vẫn theo lối cổ, kiểu Tàu. Song những hình vẽ được khảm trai
trên đó lại là hình minh hoạ truyện ngụ ngôn của La Fontaine, còn chữ viết, cũng
được khảm trai, là chữ Quốc ngữ khắc theo bút tích và chữ ký của chính cụ Nguyễn
Văn Vĩnh. Đây có lẽ là đôi tràng kỷ có khắc chữ Quốc ngữ với gần 90 năm tuổi
duy nhất ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Vì thế chúng
thật sự là vô giá. Con trai tôi nói cháu vừa ngồi vừa run sau khi biết
mình đang dựa lưng vào một thế kỷ quá khứ. “Thế mà chỗ dựa đó
lại cứ lung la lung lay” – cháu nói. Đôi tràng kỷ được
kê trước bàn thờ gia tộc, với nhiều ảnh chân dung. Chân dung cụ Nguyễn
Văn Vĩnh to nhất treo trên cùng. Trên bức tường bên cạnh, một bức ảnh màu chụp
bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn
Vĩnh)” của tôi được lồng khung mạ vàng, có đèn chiếu hắt từ dưới lên, treo ở
chính giữa. Hai bên là những bức ảnh chụp cụ Vĩnh, kèm hai
bài báo viết về cụ Vĩnh được lồng khung kính trang trọng. Một bài do
chính tôi viết đăng ở báo Quân đội Nhân dân.
|
Lưng tràng kỷ có bút
tích và chữ ký của cụ Nguyễn Văn Vĩnh |
Ông Bình mời chúng tôi dùng bữa trưa với gia đình ông. Đồ ăn do một người bạn của gia đình, chủ một tiệm ăn, mang tới.
Ông chủ tiệm ăn cười và nói: “Trước tôi tốt nghiệp kỹ
sư cơ khí ở
Ông Bình còn cho biết, để có tiền làm bộ phim về cụ Nguyễn
Văn Vĩnh, ông đã phải thế chấp ngôi nhà 3 tầng trị giá mấy trăm triệu đồng mà
ông và gia đình hiện đang sinh sống. Ông nói lúc đầu
ông cũng định hợp tác với Đài truyền hình Việt Nam (THVN) để làm bộ phim này.
Nhưng Đài THVN nói sẽ chỉ tài trợ được 35 triệu đồng (khoảng
2 ngàn đô-la Mỹ) và lại đòi được giữ bản quyền bộ phim. Vì thế ông đành từ chối. Ông Bình nói với con trai tôi: “Có
nhiều sách báo đã viết về cụ Vĩnh, nhưng bố cháu là người đầu tiên đã đưa cụ
Nguyễn Văn Vĩnh vào hội hoạ.” Trước khi chia tay gia
đình ông Bình, tôi xin phép được thắp hương trước bàn thờ cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
Ông Bình nói: “Cụ Nguyễn Văn Vĩnh không thể nào ngờ được một thế kỷ sau lại có
người ngưỡng mộ cụ như Nguyễn Đình Đăng.”
9. Hoạ sĩ trẻ Hà Nội
Khác với những năm cuối 90, khi các galleries tranh ở Hà Nội còn đang bung ra với
nhiều tác phẩm có tính nghệ thuật, có sự băn khoăn dằn vặt của tìm tòi sáng tạo,
galleries ở Hà Nội bây giờ nhiều vô kể. Phần lớn bày các tranh “bờ hồ”, được vẽ
trên vải bông (cotton canvas) rẻ tiền, màu sắc lòe loẹt, sơn đắp dày vô tội vạ,
với các motive nghèo nàn như phố xá, thiếu nữ áo dài, sư sãi, tĩnh vật bát đũa
- điếu cày - đèn dầu – bát hương v.v. Những tranh kiểu “mô-đéc” hay trừu tượng
màu sắc cũng rợ không kém. Một số hoạ sĩ thời thượng mở
gallery-studio ở khu trung tâm phố cổ. Đẩy cửa bước
vào một gallery-studio loại này, khách có thể thấy tranh treo ở gian bên ngoài
vừa để trang trí vừa để bán. Qua cửa kính khách có thể nhìn thấy chính
hoạ sĩ khoảng “quá niên trạc ngoại tứ tuần”, đầu cạo trọc vẻ khổ hạnh, đang
“sáng tác” ở gian bên, trong một khung cảnh xa hoa với sập gụ tủ chè, và một cô
gái đứng làm mẫu hẳn hoi (tất nhiên là mặc quần áo chứ không phải khoả thân).
Căn phòng chìm trong ánh sáng mờ mờ kỳ ảo và tiếng piano chơi nhạc Chopin phát
ra từ một CD player. Tôi vốn mê
Chopin, nhưng để thưởng thức Chopin ở đây có lẽ tôi phải học thêm “thiền”, để
có thể vừa nghe vừa nhìn - nhưng không thấy - cái mũ cối màu xanh lá cây gắn
sao vàng được vẽ trong bức tranh treo trên bức tường trước mặt.
Dạo chơi trên một phố dài gần Hồ Gươm một buổi sáng, tình cờ tôi thấy một triển
lãm cá nhân của một hoạ sĩ vẽ tranh sơn mài. Một loạt tranh khá to treo kín 3
gian phòng lớn, được vẽ theo kiểu sơn mài mỹ nghệ, với
nhiều “tông” đỏ, nâu tối, hình hoạ phẳng bẹt, không có chiều thứ ba. Một hoạ sĩ 42 tuổi mà vẽ được nhiều tranh to như thế này trong vòng
10 năm trời thì kể cũng là một thành tựu. Ngoài tôi và vợ con tôi, trong
phòng tranh còn có một người nữa đeo máy ảnh đi lại chụp tranh. Đoán đó chính là tác giả, tôi tiến đến tự giới thiệu. Anh ta
nói: “À! Anh là Nguyễn Đình Đăng.” Thế rồi chưa để tôi
kịp lên tiếng, anh ta nói ngay, vẻ bức xúc:
“Tôi đã đến xem triển lãm của các anh. Trước khi đi xem, tôi
nghĩ mình sẽ được xem tranh của Nhật Bản, ai ngờ lại toàn tranh vẽ kiểu Tây!”
Tôi định nói để anh hiểu là đó chính là You-ga (hội hoạ Tây phương) ở Nhật, và
Nhật Bản còn có Nihon-ga hay hội hoạ truyền thống từa tựa như tranh sơn mài hay
tranh lụa ở Việt Nam, song anh ta gạt đi:
“Không! Nhật Bản là Nhật Bản, Tây là Tây! Như tranh của tôi
đây, hoàn toàn Việt
Tôi không rõ trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội đã dạy anh ta những
gì để khiến anh ta phát ra những tuyên bố… ngộ nghĩnh đến vậy. Chưa hết, anh ta còn “khai hoá” cho tôi biết là vẽ tranh to “khó lắm,
không đơn giản là chỉ phóng tranh kích thước nhỏ lên là xong.” Anh ta hỏi tôi ở Nhật có bao nhiêu hoạ sĩ. Tôi nói theo thống kê năm 2000 thì toàn nước Nhật có khoảng 40 ngàn
người chỉ hành nghề vẽ hoặc điêu khắc. Tuy nhiên nếu tính cả
những hoạ sĩ có làm thêm nghề khác để sinh sống như dạy học, hoặc nghiên cứu
khoa học (như tôi), thì con số đó lên tới khoảng 300 ngàn. Anh ta nói:
“Con số chẳng nói lên điều gì cả!”
Tôi lấy làm lạ rằng nếu vậy thì anh ta hỏi tôi con số để làm gì. Ngay tiếp theo đó, chàng hoạ sĩ vung tay chỉ các bức tranh của mình và
nói:
“Đây chỉ là 1/3 số tranh của tôi!”
Con số 1/3 đối với anh ta trong trường hợp này chắc là phải có ý nghĩa lắm! Cuối
cùng anh ta nói với tôi:
“Anh chỉ là một hoạ sĩ nghiệp dư. Những người mê vẽ nghiệp dư
như anh rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên anh không nên
vẽ giống Dalí, như thế nó phí đi, nên tìm ra cái gì của riêng mình, như tôi
đây.”
Đến đây thì tôi hết kiên nhẫn để ngồi lại. Tôi không ngờ một hoạ sĩ chưa già (kém tôi 6 tuổi) lại tỏ ra kiêu
căng và khiếm nhã đến vậy. Bạn hãy tưởng tượng bạn đến thăm nhà một người
mà vừa gặp thì đã bị chủ nhà chê là bạn mặc quần áo không đúng mốt, và phải mặc
thế này hay thế kia thì mới “sành điệu”. Tôi đành đứng lên, chúc anh ta thành công và đi ra. Chàng hoạ
sĩ này cũng giống như một số người Việt Nam khác mà tôi đã từng gặp, những người
thích nói khá dài về bản thân mình, luôn tỏ ra là mình rất quan trọng và hiểu
biết, mà không mấy quan tâm đến quan điểm của đối phương. Họ đến dự một cuộc
giao lưu hay họp báo chỉ cốt để tỏ cho người khác thấy rằng: “Tôi biết cả rồi.
Các ông không phải dạy tôi”, chứ không phải để thu nhận
thông tin mới hay để học hỏi.
Vài ngày sau tôi được xem một phòng tranh khác của một hoạ sĩ
sinh năm 1976. Cậu ta vẽ sơn dầu. Kích thước các bức tranh cũng đều khá lớn. Dạo này các hoạ
sĩ trẻ ở Việt Nam có xu hướng vẽ tranh to, có lẽ do kinh tế khá lên, studio rộng
ra, có tiền để mua “toan” (toile) khổ lớn v.v. Tranh của hoạ sĩ trẻ này có nhiều
chất hội hoạ hơn loạt tranh mỹ nghệ của chàng hoạ sĩ sơn mài vừa nói trên. Kỹ
thuật vẽ sơn dầu của cậu phải nói là khá tuy có nhiều chỗ toile được đắp sơn
quá dày, bị vón cục, không rõ lý do. Hình hoạ vẽ theo
lối tả thực nhưng còn xộc xệch, sai tỉ lệ nên trông hơi ngô nghê. Các đề tài cậu ta chọn về chiến tranh (đã kết thúc trước khi cậu ra
đời), cảnh sống của người đạp xích lô, có vẻ hơi khiên cưỡng. Tôi cho rằng
nếu cậu tập trung vẽ theo những rung động của chính cậu
chứ không chạy theo những trào lưu tâm lý sáo rỗng mà đám đông thường tung hô
thì tranh cậu chắc chắn sẽ hay hơn nhiều. Bức đẹp nhất trong phòng tranh này đối
với tôi lại là một bức phong cảnh có một con thuyền nan
trên một hồ nước, được vẽ bằng một phong cách khác tất cả những bức có tông
vàng còn lại. Tôi có nhìn thấy hoạ sĩ trẻ đó tại buổi khai mạc
phòng tranh của cậu. Lúc đầu tôi định nói chuyện với cậu, nhưng sau khi
nhớ lại cuộc gặp gỡ với chàng hoạ sĩ vẽ sơn mài nọ, tôi đành theo
phương án “chiêm ngưỡng từ xa”.
10. Cuộc sống ở Hà Nội
Tôi sẽ có thiếu sót lớn nếu không nói vài nhận xét về cuộc sống ở Hà Nội nói chung.
Hà Nội bây giờ đã to ra rất nhiều. Các
cao ốc mọc lên tại trung tâm thành phố. Các khu Thành
Công, Láng Hạ, Phương Mai, Nghĩa Đô, v.v. bây giờ được mở rộng. Tít về
phía tây Hà Nội, gần Trung tâm Hội nghị Quốc gia với mái nhà cuộn sóng biển
Đông – theo ngôn từ báo chí, hay hình con giun – theo
ví von của các nghệ sĩ, là các toà nhà cao 10 – 12 tầng, với những căn hộ rộng
trên 120 m2. Nhiều siêu thị mọc lên, trong đó có những siêu thị khá
to như BigC, Metro, v.v. Nhà hàng ăn, café, bar, vũ trường, hộp đêm bung ra chi
chít. Bạn có thể ăn phở 24, được phục vụ tử tế, sạch sẽ, chỗ ngồi lịch sự giá
thấp nhất là 24 ngàn đồng một bát, hay phở “quát” giá 12 ngàn, nước dùng ngầu mỡ,
ngồi chen chúc, bàn ghế bát đũa bẩn thỉu, vừa ăn vừa bị nghe quát mà không hiểu
sao khách ăn vẫn đông như kiến. Bạn có thể uống một li cà-phê giá 25 ngàn đồng
tại một quán khá sang trọng bên bờ Hồ Gươm, hay thưởng thức một li whisky giá
50 ngàn đồng tại vũ trường N.C., trong khi quan sát các thiếu gia đang nhảy
trong tiếng nhạc ù tai tức ngực dưới ánh đèn mờ ảo rọi lên sân khấu, nơi có mấy
cô gái trên mình chỉ có hai mảnh vải đỏ che những chỗ tối thiểu cần che, đang
quằn quại toàn thân theo những tư thế kích dục. Từ một thành phố nhỏ với những
con phố êm đềm, vắng vẻ, vang tiếng guốc ai lê trong buổi trưa hè, trải qua 30
năm sau cuộc chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của vài triệu người, Hà Nội đang
chuyển mình rất nhanh theo “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
để “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” trở thành một thành phố ăn chơi tiêu
thụ, đắt đỏ có hạng trên thế giới.
Nhiều người ngoại quốc cho rằng Việt
Khách đến Hà Nội nên cẩn thận với taxi “dù”. Đó là các
xe tuy cắm “mào” taxi, nhưng là những taxi “đểu”, hay
nằm đón khách dọc đường. Đồng hồ các xe này nhảy số rất
nhanh, kết quả là khách đi xe thường bị ép trả một số tiền gấp 2 – 5 lần. Mấy
nghệ sĩ nhiếp ảnh trong đoàn chúng tôi một hôm vẫy phải một taxi “dù” như vậy để
đi từ Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền đến Nhà khách Quân đội 33 A Phạm Ngũ Lão. Họ đã đi đoạn đường này nhiều lần nên biết giá taxi chỉ vào khoảng
15 ngàn. Tuy nhiên khi đến nơi, đồng hồ taxi này chỉ
100 ngàn. Họ nhất định không trả. Hai bên giằng
co. Các vị khách Nhật phải chạy vào nhà khách cầu cứu người trực ban ở đó. Sau
khi có sự can thiệp của nhân viên nhà khách, anh chàng lái taxi xoay một cái
nút, thế là con số 20 ngàn hiện ra trên đồng hồ thay vì 100 ngàn. Những người Nhật chấp nhận trả 20 ngàn. Một cô bạn Nhật nói
với tôi rằng vấn đề ở đây không phải là 20 ngàn hay 100 ngàn, vì 100 ngàn đối với
họ vẫn là rẻ (chưa đến 1 ngàn yên). Cô nói cô biết là nếu trả thêm một ít tiền
thì bữa ăn hôm nay của gia đình người lái xe cũng có
thể sẽ ngon hơn. Thế nhưng cô rất bối rối trước sự mất giá của
đạo đức, và không chấp nhận được sự lừa đảo.
*
Câu cuối cùng các phóng viên thường hỏi khi phỏng vấn tôi tại Hà Nội là: “Anh
có dự định khi nào sẽ về Việt
Chúng tôi rời Hà Nội quay lại
Sau hai tuần sống trong sự sôi động, ồn ào, hừng hực của Hà Nội, với chuông điện
thoại réo liên tục trong nhà và còi công an dẹp đường cho xe APEC rú liên hồi
ngoài phố, trở về Wako city, tôi thấy thành phố nhỏ bé của chúng tôi bỗng trở
nên thật yên tĩnh và thanh bình biết bao. Mở đống quà lưu niệm
mang từ Hà Nội về Nhật, tôi lấy ra đĩa DVD bộ phim của đạo diễn Trần Văn Thủy.
Bên dưới đầu đề Hà Nội trong mắt ai có in dòng chữ: Bị cấm từ 1982 đến
1987. Giải Bông sen vàng Liên hoan phim quốc gia 1988.
Viết xong ngày 22/11/2006 tại Tokyo
Phụ lục
Dưới đây là toàn văn bài trả lời phỏng vấn tác giả đọc lần đầu tiên vào ngày
13/11/2006 tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà Nội trước ống kính máy quay phim
của đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy và cameraman Nguyễn Sĩ Bằng với sự hiện diện
của ông Nguyễn Lân Bình và một số khán giả xem triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản”.
Nguyễn Đình Đăng
Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông
Nguyễn Văn Vĩnh)”
như thế nào?
Là một trong những người Việt Nam sống nhiều năm ở nước ngoài, tôi không khỏi
trăn trở mỗi khi nghĩ đến sự tụt hậu của quê hương so với các nước có nền kinh
tế và văn minh trên thế giới như Nhật Bản và Hoa Kỳ. Mỗi lần trăn trở như vậy,
tôi lại thấy rất cảm phục những tiền bối đã sớm nhìn thấy gốc rễ sâu xa của mọi
yếu kém của dân Việt nằm trong dân trí, và đã ra sức cống hiến tài năng và nhiệt
huyết của mình để nâng cao dân trí của Việt Nam, cho dù tiếng nói của họ khi đó
có thể chỉ là thiểu số, cho dù họ có thể bị đám đông xa lánh, hay bị đàn áp bởi
cường quyền. Cụ Nguyễn Văn Vĩnh là một bậc vĩ nhân như
vậy của Việt
Có thể nói người Việt Nam ta ngày nay đang dùng một thứ chữ viết mà nhờ nó họ
đã hoà nhập được rất nhiều với nền văn minh phương Tây, thoát ra khỏi nền độc
tài của văn hoá Trung Hoa, vốn có một lịch sử thống trị cả ngàn năm trên phần bắc
của dải đất hình chữ S. Chữ Quốc ngữ được sáng tạo ra ở Việt Nam lúc đầu là nhờ
công lao của các nhà truyền giáo Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha và Pháp. Nó
được đánh dấu chói sáng lần đầu tiên bằng sự xuất bản chính thức tại
Xuất thân từ một gia đình nghèo, đông con, nhưng với tài năng và nghị lực phi
thường của mình, ông Nguyễn Văn Vĩnh đã từ một thằng nhỏ kéo quạt cho một lớp
đào tạo thông ngôn tại đình Yên Phụ, trở thành người đỗ đầu khoá học khi mới 14
tuổi (năm 1896). Từng là trợ lý đắc lực cho công sứ tỉnh Bắc Ninh, được Pháp
cho sang thăm triển lãm Marseilles, ông Vĩnh có cả một tiền đồ với quyền cao chức
trọng chờ đợi mình ở Đông Dương. Thế nhưng, kỹ nghệ in ấn và tự do báo chí ở
Pháp đã mở cho người thanh niên 24 tuổi một con đường khác. Trở về Việt
Tôi được nghe bố tôi kể về cụ Vĩnh từ khi tôi còn rất bé, khi sách giáo khoa lịch
sử của bộ giáo dục Việt Nam còn gọi cụ Vĩnh là bồi bút và Alexandre de Rhodes
là gián điệp của Pháp. Năm cuối cùng ở phổ thông, tôi được làm học trò về toán
của cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi đạt điểm cao trong kỳ thi vào đại học
năm 1975 và vì thế được đi học ở nước ngoài. Cuộc đời tôi nhờ
đó đã thay đổi hẳn. Tôi trở thành nhà vật lý và hoạ sĩ, được sống tại
các nước văn minh, được mời thuyết trình tại các trường đại học danh tiếng tại
Hoa Kỳ, châu Âu, châu Á, được bày tranh tại các viện bảo tàng và galleries của
Tokyo. Như vậy, tôi có thể nói, ngoài cái tinh hoa tôi được di truyền từ bố mẹ
tôi, cũng là những trí thức Tây học, biết đâu tôi cũng đã có diễm phúc được hưởng
một phần cái tinh thần của cụ Nguyễn Văn Vĩnh nhờ từng được làm học trò của
cháu cụ!
Trong một dịp về thăm nhà vào năm 2000 tôi được đọc những tài liệu khá chi tiết
về thân thế và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh do con trai của cụ, ông Nguyễn
Kỳ, bạn của bố mẹ tôi, sưu tầm. Câu
chuyện đầy huyền thoại về cái chết của cụ Vĩnh làm tôi đặc biệt xúc động.
Ngay lập tức tôi thấy lờ mờ hiện lên trước mắt bố cục.
Quay trở lại
Người mẫu cho cơ thể ông Vĩnh chính là tôi. Người mẫu
cho phần cơ thể mặc áo chùng của Alexander de Rhodes là con trai của tôi. Để đảm
bảo tính chính xác về chân dung, tôi đã dựa theo các
chân dung cũ của Alexander de Rhodes tìm thấy trên internet để vẽ khuôn mặt và
mũ của ông. Bức tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu Việt của ông
Nguyễn Văn Vĩnh)” đã được tôi vẽ như vậy .
Theo hiểu biết của tôi, đây là bức tranh đầu tiên và cho đến
giờ vẫn là duy nhất vẽ về Alexandre de Rhodes và cụ Nguyễn Văn Vĩnh như những
danh nhân văn hoá trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ. Cách đây 2 năm tôi
nhận được thư của ông Nguyễn Lân Bình, cháu nội cụ
Nguyễn Văn Vĩnh. Ông Bình nói rằng ông và gia đình đã “rất xúc động” khi tình cờ
xem bức tranh này trên trang web của tôi. Ông còn nói ông và
gia đình “cảm nhận bức tranh này như một phần thưởng tinh thần to lớn với gia
đình ông”. Dịp về Hà Nội triển lãm “13 tầm nhìn từ Nhật Bản” cùng với 12
nghệ sĩ Nhật Bản tại Nhà triển lãm mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Việt Nam tại 16
Ngô Quyền Hà Nội từ 8 đến 14/11/2006, trùng với lần giỗ thứ 70 của cụ Nguyễn
Văn Vĩnh. Vì thế tôi đã mang bức tranh này về trưng bày để công chúng yêu nghệ
thuật và các hoạ sĩ trong nước có thể thấy nguyên bản tác phẩm gốc, âu cũng là
một dịp bày tỏ niềm kính trọng và ngưỡng mộ của tôi trước một vĩ nhân văn hoá,
người đã góp phần rất lớn làm cho chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân
Việt ngày hôm nay.
Viết xong ngày 17/10/2006 tại Tokyo
© 2006 talawas
[1]Xem quy
định về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế của Tổng cục Hải quan tại http://www.customs.gov.vn/Default.aspx?tabid=416#
[2]Xem
Phụ lục
[3]Vi
Văn Định: lãnh tụ đồng bào Thổ vùng Lạng Sơn giai đoạn 1945-1946