Nguyễn
Đình Đăng
Tìm
một con đường cho giáo dục Việt Nam*)
@@@@@@@@
Có lẽ
chưa bao giờ khủng hoảng giáo dục ở
Việt Nam lại được thảo luận với
nhiều bức xúc như hiện nay. Tuy nhiên phần
lớn các giải pháp chấn hưng giáo dục
vẫn chưa thoát khỏi triết lý
đào tạo để phục vụ - cái thứ
triết lý đã khiến nhiều người
ngộ nhận các giải thi Olympic toán, lý
quốc tế với sự tài giỏi của học
sinh Việt Nam, ngộ nhận việc Đặng
Thái Sơn đoạt giải Chopin cách
đây đã hơn 1/4 thế kỷ (năm 1980) với
sự ưu việt của đào tạo âm nhạc
nước nhà.
Một
gia đình, bất kể giàu hay nghèo,
mà cha mẹ sống không trung thực, không
tôn trọng, thậm chí lừa dối con
cái, độc đoán, trừng phạt khắc
nghiệt con cái khi chúng suy nghĩ, biểu hiện
trái ý của cha mẹ, không thể gọi
là một gia đình tốt, ổn định.
Xã hội cũng tương tự như vậy.
Đã đến lúc cần thừa nhận rằng
pháp luật của một
xã hội văn minh phải tôn trọng dân chủ
và nhân quyền, trong đó tự do ngôn
luận là quyền tự do cao nhất. Đó là quyền của mỗi
con người có thể phát biểu công khai
quan điểm của mình mà không sợ bị
kiểm duyệt hay bị trừng phạt. Nhà nước và
mọi tổ chức chính trị là do dân tạo
ra và có nghĩa vụ phục vụ nhân
dân chứ không phải ngược lại.
Ngân sách nhà nước, trong đó
có ngành giáo dục, là do nhân dân
đóng thuế mới có. Quan điểm
gnhân tài phải phục vụ nhà nướch
nay cần được đổi thành gnhà
nước và các công ty tư nhân (hay cổ
phần) phải biết cách trọng dụng nhân
tàih, tức là phải đối xử tử tế
với họ để họ có thể tự do
phát triển tất cả tài năng của họ,
qua đó đem lại lợi ích cho đất
nước, nhà nước và các công ty.
gĐối xử tử tế" ở đây cần
được hiểu đầy đủ bao gồm tiền
lương, trách nhiệm, quyền hạn v.v.
tương xứng với tài năng của từng
cá nhân. Người tài không có lỗi
nếu họ rời quê hương ra nước
ngoài vì ở nước đó họ
được đối xử tốt hơn. gĐất
lành chim đậu". Con người cũng vậy.
Họ có quyền tự do đi lại, tự do lựa
chọn chỗ ở, tự do thay đổi quốc tịch.
Một
nền giáo dục ưu việt phải tạo cho mỗi
học sinh đầy đủ điều kiện để
có thể phát triển toàn diện. Không phải xưa nay
người ta chưa nói đến vấn đề
này. Tiếc rằng những tiêu chuẩn thường
được rao giảng như gvừa hồng vừa
chuyênh, gtài đức song toành, gcon người
mới xã hội chủ nghĩah, và gần
đây, cái gtâmh thời thượng, thực
ra rất mơ hồ, duy ý chí, đôi khi nhầm
lẫn, khó có thể đưa đến những
biện pháp cải cách cụ thể hữu hiệu.
Một con người toàn diện ngày nay thiết
nghĩ phải là con người có khả
năng tư duy độc lập về những vấn
đề có tính giá trị chung của
toàn nhân loại, có thực tài để có
gđất dụng võh trong mọi xã hội
văn minh, tỉ
như, sau khi lĩnh bằng thạc sỹ hay tiến sỹ
của trường đại học ở Việt Nam, nếu
sang Hoa Kỳ người đó sẽ không cần
phải học lại để lấy bằng master hay
PhD cuả Hoa Kỳ nữa.
@@@@@@@@
Theo
giáo sư tâm lý và giáo dục học
H. Gardner (ĐH Harvard), trí năng con người gồm
7 lĩnh vực:
1-
Ngôn ngữ: khả năng dùng ngôn ngữ
để mô tả các sự kiện một
cách thuyết phục, hùng biện và
hình ảnh;
2-
Logic-toán học: khả năng dùng các con số
để tính toán và mô tả, dùng
các quan niệm toán học để kết nối,
ứng dụng toán học vào đời sống,
vào phân tích các số liệu, xây dựng
các luận điểm, nhạy cảm với
tính đối xứng, với thẩm mỹ
toán học, giải quyết các vấn đề
trong thiết kế và mô hình hóa;
3- Âm
nhạc: khả năng hiểu và phát triển kỹ
năng âm nhạc, rung động trước âm
nhạc, hợp tác để dùng âm nhạc
thoả mãn nhu cầu của người khác, diễn
giải các hình thức và ý tưởng
âm nhạc, biểu hiện qua sáng tạo âm
nhạc và trình diễn âm nhạc;
4-
Không gian: khả năng cảm thụ và
trình bày thế giới một cách chính
xác bằng hình ảnh trong không gian, khả
năng sắp xếp màu sắc, đường
nét, hình dáng đáp ứng nhu cầu của
người khác, khả năng diễn giải
các ý tưởng bằng hình ảnh, khả
năng chuyển các ý tưởng bằng
không gian hay hình ảnh thành các biểu
hiện sáng tạo;
5- Thể
hình: khả năng dùng cơ thể và dụng
cụ để tạo nên các hành động
hữu hiệu, để xây dựng hay sửa chữa,
giúp đỡ người khác, cảm thụ thẩm
mỹ của cơ thể và dùng các
giá trị đó để tạo nên
các hình thức biểu hiện mới;
6- Giao cảm:
khả năng tổ chức mọi người, truyền
đạt rõ ràng những gì cần giải
quyết, khả năng đồng cảm để
giúp đỡ người khác và giải quyết
các vấn đề vướng mắc, khả
năng động viên kêu gọi mọi người
tham gia thực hiện một mục đích chung;
7- Nội
cảm: khả năng hiểu được chính
mình, các chỗ mạnh chỗ yếu của
mình, tài năng của mình, các mối
quan tâm của mình, và dùng các yếu
tố đó để đặt ra mục
đích phấn đấu, để hiểu
chính mình có ích cho người khác
đến đâu và như thế nào, khả
năng tạo nên các quan niệm và lý
thuyết dựa trên soi xét chính bản
thân mình, khả năng dùng trực giác
và nhiệt tình của mình để tạo
ra và bộc lộ quan điểm riêng.
Dĩ
nhiên, có được cả 7 lĩnh vực của
trí năng như trên được phát triển
đầy đủ trong một con người thực quả
không dễ dàng - một điều chỉ thấy
ở những cá nhân đặc biệt xuất
chúng. Song việc đưa tính đa trí
năng nói trên vào chương trình
giáo dục của nhà trường vừa
giúp phát triển các thiên hướng
khác nhau của học sinh, vừa cung cấp cho học
sinh một học vấn toàn diện.
I) Như
vậy, ngoài các môn như toán, lý,
hoá, sinh vật, văn chương, lịch sử,
địa lý, một chương trình
đào tạo toàn diện cần có:
1.
Môn
âm nhạc với các giáo viên được
đào tạo về âm nhạc để dạy
cho trẻ về xướng âm, nhạc lý, lịch
sử âm nhạc, tiếp xúc với các kinh
điển âm nhạc của nhân loại như
các tác phẩm của Bach, Beethoven, Mozart, Chopin,
v.v., tổ chức cho học sinh có các buổi biểu
diễn ca nhạc. Mỗi trường cần được
trang bị các nhạc cụ cơ bản như
đàn piano, đàn organ điện tử, một
số đàn dây, bộ gõ, một số
kèn (như trumpet, trombonnes, cornes, saxophones, clarinettes v.v.)
để có thể lập một dàn nhạc của
trường;
2.
Môn
mỹ thuật với các giáo viên được
đào tạo về hội hoạ để dạy
học sinh những kiến thức cơ bản về mỹ
thuật, hoà sắc, hình hoạ, cách vẽ
màu nước, màu bột, sơn dầu, nặn
tượng, làm tranh đồ hoạ, lịch sử
mỹ thuật, tiếp xúc với các kiệt
tác tiêu biểu của nhân loại như
điêu khắc và kiến trúc Hy Lạp, La
Mã, các đại danh hoạ và các
trường phái hội hoạ thế giới v.v. Mỗi
trường học cần được trang bị một
phòng vẽ với nhiều giá vẽ, tượng,
và một số hoạ cụ cần thiết
khác để học sinh học vẽ;
3.
Các
câu lạc bộ thể thao trong trường cho học
sinh (có thể từ trung học trở lên) tự
chọn như: bóng đá, bóng rổ,
bóng chuyền, karate, judo, v.v. Mỗi trường cần
có một phòng thể thao, một bể bơi,
và một sân vận động nhỏ;
4.
Giáo
dục giới tính, bao gồm cả những vấn
đề như quan hệ tình dục an toàn;
5.
Phương
pháp giáo dục đổi theo hướng khuyến
khích học sinh tư duy độc lập, phát
biểu quan điểm riêng của mình về mọi
vấn đề, tránh chỉ nhai lại một
đáp án duy nhất, bất kỳ đó
là của ai hoặc cơ quan, tổ chức nào
đưa ra. Trong khi tiến hành, hết sức
tránh mọi hình thức chụp mũ, quy kết,
mà cần đưa ra chứng minh khách quan cho học
sinh thấy đâu là chân lý, và để
các em tự đi đến kết luận. Điều
mấu chốt là phải cung cấp cho học sinh những
phương pháp tư duy logic, chứ không
đơn thuần là chỉ nhồi sọ các em
những kiến thức đã xơ cứng và
cũ rích, nhiều khi sai lạc, mà lối học
vẹt không thể nào phát hiện ra;
6.
Tin học
hoá toàn bộ hệ thống nhà trường:
Các trường từ trung học trở lên
được trang bị computers và được nối
mạng internet.
II)
Toàn bộ sách giáo khoa phải được
gchế tạoh lại, gđẹph cả về nội dung lẫn
hình thức, có màu và nhiều hình ảnh
minh họa. Học sinh cầm trên tay quyển sách
giáo khoa đẹp cũng cảm thấy tò
mò, hứng thú học hơn. Để có
sách giáo khoa tốt nên tư nhân hoá
toàn bộ việc xuất bản sách giáo
khoa, tạo
điều kiện cho các nhà sách cạnh
tranh, mời các tác giả hay nhất viết,
các họa sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà thiết
kế giỏi trình bày sách giáo khoa.
Sách giáo khoa cần được biên soạn
lại hàng năm để bổ sung những kiến
thức mới nhất của nhân loại, loại bỏ
những gì đã lỗi thời. Các trường
có toàn quyền lựa chọn sách giáo
khoa cho học sinh của mình. Bộ Giáo dục
chỉ đưa ra các yêu cầu về
chương trình mà các nhà viết
sách giáo khoa cần đảm bảo, sau
đó lập hội đồng xét duyệt
để công nhận những bộ sách
giáo khoa nào đạt yêu cầu để
có thể dùng cho giảng dạy [1].
III)
Các trường công cần đảm bảo cho
giáo viên có thu nhập nuôi sống
được gia đình họ để họ có thể chuyên
tâm nghề dạy học tại trường mà
không phải gkiếm thêm ngoài giờh [2].
Giáo viên khi đã nhận lương cao,
không được phép dạy thêm ở bất
cứ trung tâm dạy thêm nào. Người vi
phạm bị thải hồi. Như vậy, những
người dạy tại các trung tâm dạy
thêm sẽ không đồng thời là
giáo viên của các trường phổ
thông hoặc giáo sư các trường đại
học. Thường xuyên có các đợt
sát hạch trình độ của giáo
viên để duy trì một đội ngũ giảng
dạy thực sự có trình độ cao.
IV)
Bãi bỏ toàn bộ kỳ thi vào đại
học.
Các trường đại học tuyển sinh dựa
trên kết quả của học sinh trong 3 năm cuối
trường phổ thông trên cơ sở các
tiêu chuẩn về đa trí năng nói ở
trên, và qua phỏng vấn nếu cần. Các
kỳ thi học kỳ trong trường đại học
sẽ là các đợt sàng lọc sinh
viên. Như vậy số người tốt nghiệp
đại học sẽ ít hơn số người
vào đại học, vì sẽ có một số,
do học kém, không qua được các kỳ
thi học kỳ, bị loại ra giữa chừng,
tránh được tình trạng vào bao
nhiêu ra bấy nhiêu của đào tạo đại
học hiện nay.
Nền
văn minh của một đất nước không phải
được đo bằng đồng tiền, bằng
thu nhập của một số trọc phú, nhất
là lại do làm ăn bất chính, do tham
nhũng mà có. Nền văn minh của một
đất nước được thể hiện trong
các giá trị tinh thần và tri thức
mà nhân dân của đất nước
đó tạo ra. Trong sự nghiệp này giáo
dục, văn hóa, nghệ thuật và khoa học
giữ vai trò quyết định.
Nếu
ví nền văn minh của một quốc gia như một
khu rừng thì trí thức là những ngọn
cây cao nhất trong khu rừng đó. Người
ta nhận ra khu rừng lớn từ đằng xa bởi
trông thấy những ngọn cây cao nhất đầu
tiên.
Chú
giải:
*) Dựa
theo phần 2 của bài gTại sao giáo dục Việt
Nam khủng hoảng và đâu là lối
thoát ?h (đăng ngày 20.10.2005 tại talawas
và trang web của tác giả. Xem: http://ribf.riken.go.jp/~dang/education.htm).
Trong bản đăng trên Vietnam net tại http://vietnamnet.vn/service/printversion.vnn?article_id=902682
ngày 1/3/2007 ban biên tập đã tự ý
thay đổi đầu đề và bỏ câu gNgười
tài không có lỗi nếu họ rời
quê hương ra nước ngoài vì ở
nước đó họ được đối xử
tốt hơn.h
mà không được sự đồng ý của
tác giả.
[1] Cuốn
sách gLuân lý mớih của học sinh lớp
12 ở Nhật dày 200 trang, dạy khá kỹ về
các triết gia của nhân loại và các
học thuyết của họ, từ các triết gia
phương Tây như Socrates, Platon, Aritstotle v.v. đến
các nhà tư tưởng phương Đông
như Khổng Tử, Mạnh Tử, v.v. Phần các
học thuyết của xã hội hiện đại
dạy các tư tưởng thời Phục Hưng,
rồi D. Erasmus, M. Luther, J. Calvin, M. E. Montaigne, B. Pascal, F.
Bacon, R. Descartes, các tư tưởng dân chủ tự
do của J. Locke, J. J. Rousseau, I. Kant, G. Hegel, J. Bentham, J. S. Mill,
K. Marx, S. A. Kierkegaard, S. Freud, K. Jaspers, F. W. Nietzsche, M.
Heidegger, J. P. Sartre v.v., lịch sử các tôn
giáo như đạo Thiên Chúa, đạo Phật,
đạo Hồi v.v.
Có
bao nhiêu học sinh lớp 12 của Việt Nam hiện
nay biết Kant, Hegel, Kierkegaard là ai, hoặc thuyết
phân tâm học của Freud nói gì, kể cả
bằng tự đọc sách?
[2] Theo một
đại biểu tham dự hội thảo chấn
hưng giáo dục (VietNamNet 28/3/2004), nhà nước
ta chi cho giáo dục (22 triệu học sinh) 4 tỉ
USD/năm (bình quân: 182 USD/1 học sinh). Để
so sánh, ngân sách chi cho giáo dục của
Nhật Bản cách đây 15 năm (25 triệu học
sinh) là khoảng 50 tỉ USD (bình quân: 2000 USD
/1 học sinh), gấp hơn 10 lần của Việt Nam.
Ngoài ra, chi phí của gia đình cho một học
sinh cấp 3 trường công ở Nhật là khoảng
4 – 5 ngàn USD/năm. Lương một giáo
viên độc thân 23 - 24 tuổi mới vào
nghề của Nhật là khoảng 27 ngàn
USD/năm. Một giáo viên 40 tuổi có một
vợ và 2 con hưởng lương khoảng 50
ngàn USD/năm, tương đương lương
phó giáo sư đại học (35 tuổi) khoảng
45 ngàn USD/năm.