Fukushima 1 không phải là Chernobyl thứ hai Nguyễn Đình Đăng Khi tôi viết những dòng này,
trận động đất 9 độ Richter và sóng thần cao 10m tại tỉnh vùng Iwate – Miagi –
Fukushima, Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của 5692 người, làm 9506 người mất
tích [1], đồng thời gây ra tai hoạ tại nhà máy điện nguyên tử (NMĐNT)
Fukushima 1. Tin động đất hiện tràn ngập các phương tiện truyền thông thế giới
trong đó có Việt Nam. Các thông tin được đưa ra dồn dập, với những cách viết
cường điệu đầy cảm tính, thậm chí theo xu hướng nhằm gây thất thiệt, đã
khiến nhiều độc giả ở ngoài Nhật Bản, đặc biệt là tại Việt Nam, có một tâm trạng
lo sợ gần như hoảng loạn. Trong bài này chúng ta hãy bình tĩnh phân tích tai
hoạ tại Fukushima 1 để hiểu rõ mức độ thiệt hại như thế nào và tại sao đây
không phải là một Chernobyl thứ hai như một số nhà “tiên tri” từng cảnh báo. NMĐNT Fukushima 1 đi vào sử dụng
từ năm 1971, toạ lạc tại tỉnh Fukushima cách Tokyo 241 km về phía đông bắc.
Nhà máy có 6 lò phản ứng dùng nước sôi (BWR = boiling water reactor). Ngoài
ra 2 lò phản ứng mới đang được xây dựng. Tất cả 6 lò này đều được hãng
General Electric của Hoa Kỳ thiết kế. Các lò 1, 2, và 6 do hãng General
Electric sản xuất, trong khi lò số 3 do hãng Toshiba và lò số 4 do hãng
Hitachi sản xuất. Trận động đất ngày 11/3/2011 đã gây nổ tại các toà nhà của
lò phản ứng số 1 – 3, và cháy tại lò số 4. Đây là các lò loại BWR Mark I (Xem
hình 1). Hình
1: Tiết diện lò PRW Mark I Lò BWR hoạt động theo nguyên tắc
như sau. Phản ứng phân hạch toả ra nhiệt, đun sôi nước, tạo ra hơi nước sôi
làm quay các turbine chạy máy phát ra điện. Hơi nước sau đó được nước dẫn từ
ngoài vào làm lạnh, ngưng tụ lại thành nước. Nước này lại được bơm ngược trở
lại lò phản ứng để được nhiệt đun sôi làm bốc hơi. Nhiên liệu hạt nhân, chủ yếu
là gốm uranium dioxide UO2 (UOX) hay oxide hỗn hợp gồm 7% plutonium và 93%
uranium (Mixed oxide hay MOX). MOX được dùng trong lò số 3 của NMĐNT
Fukushima 1. Uranium dioxide có nhiệt độ nóng chảy khoảng 3000 độ C. Nhiên liệu
hạt nhân được sản xuất dưới dạng các viên nhỏ hình trụ đường kính khoảng 10
mm, trông như viên thuốc (Hình 2). Hình
2: Viên nhiên liệu Các viên nhiên liệu này được
nhét vào những ống dài khoảng 4 m, gắn kín làm bằng hợp kim zirconium, thiếc,
kền và sắt (Zircalloy), có nhiệt độ nóng chảy khoảng 2200 độ C, gọi là các
thanh nhiên liệu (fuel rod). Những thanh nhiên liệu được ghép thành từng bó
(assembly), dài khoảng 4.5 m (Hình 3) tạo thành lõi của lò phản ứng
(reactor core) (1 trong Hình 1), chứa vài trăm thanh nhiên liệu. Như vậy
Zircalloy tạo thành lớp vỏ thứ nhất ngăn cách chất phóng xạ và bên ngoài. Lõi
lò được đặt trong buồng áp suất (pressure vessel), tạo thành lớp vỏ thứ hai, đảm
bảo giữ cho lõi lò hoạt động an toàn ở nhiệt độ tới vài trăm độ C. Hình
3: Bó thanh nhiên liệu Điều tối quan trọng của NMĐNT
là toàn bộ hệ thống phải đảm bảo cân bằng năng lượng, có nghĩa là nhiệt năng
do lõi lò sản xuất ra phải bằng nhiệt năng được tiêu thụ (cho việc chạy các
turbines). Để đảm bảo an toàn trong trường hợp mất cân bằng năng lượng, khiến
áp suất trong lò tăng cao, người ta thiết kế một hệ thống làm giảm áp suất
mang tên Mark I, Mark II, và Mark III. Trong tất cả các thiết kế này buồng áp
suất cùng các ống dẫn, hệ thống máy bơm, hệ thống dự trữ nước làm lạnh, được
gắn kín trong một cái hầm làm bằng bê-tông cốt thép, rất dày để có thể chứa
vô thời hạn nếu lò tan chảy. Hầm chứa này gồm 3 phần: giếng khô (Hình 1: DW =
drywell), giếng ướt (Hình 1: WW = wetwell) có bể giảm áp (supression pool hay
torus) chứa nước và hệ thống ống thoát. Toàn bộ hệ thống này được đặt
trong một toà nhà, che chắn cho lò và bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử
dụng (Hình 1: B). Đây là những toà nhà đã bị cháy hay nổ tung tại các lò số
1, 2, 3 và 4 của NMĐNT Fukushima 1. Phản ứng phân hạch xảy
ra như thế nào? Khi hạt nhân uranium 235 hấp
thụ một neutron nhiệt (thermal neutron), hoặc phân hạch (fission) tự
phát (spontaneous fission), hạt nhân uranium sẽ tách ra làm hai mảnh, đồng thời
phóng ra các hạt neutrons mới. Những hạt neutrons mới này có thể bắn vỡ các hạt
nhân unranium 235 bên cạnh, tạo ra nhiều neutrons hơn, gây nên phản ứng dây
chuyền (chain reaction) [2]. Mỗi phân hạch như vậy giải phóng khoảng
200 triệu electron-Volts, lớn gấp hàng chục tới trăm triệu lần năng lượng được
tạo bởi đốt than trong nhà máy nhiệt điện. Để điều khiển phản ứng hạt nhân
dây chuyền trong lò phản ứng, người ta dùng các thanh điều khiển (control
rod). Các thanh điều khiển được làm từ hợp kim của các nguyên tố kim loại có
khả năng hấp thụ neutron mà bản thân không bị phân hạch, ví dụ hợp kim bạc-indium-cadmium.
Khi các thanh điều khiển cắm sâu vào giữa các bó thanh nhiên liệu, chúng hấp
thụ neutrons, khiến neutrons không còn bắn phá được các hạt nhân uranium 235
nữa, nên phản ứng dây chuyền dừng lại. Tuy nhiên, sau khi phản ứng
dây chuyền đã dừng lại rồi, uranium 235 không phân hạch nữa, nhưng một lô các
nguyên tố phóng xạ trung gian, sinh ra trong quá trình phân hạch, như iodine
và cesium tiếp tục phân rã và sản ra nhiệt. Vì không phải là phân rã dây chuyền
nên số lượng của các nguyên tố này giảm dần. Kết quả là lò phản ứng nguội dần
cho đến khi nào các nguyên tố trung gian đó phân rã hết. Quá trình nguội lò
này thông thường kéo dài vài ngày. Nhiệt được tạo ra do các nguyên tố trung
gian phân rã được gọi là nhiệt dư (residual heat). Như vậy các nguyên tố phóng xạ
ở đây là uranium trong các thanh nhiên liệu, tạo ra nhiệt chạy turbines phát điện,
và các nguyên tố phóng xạ trung gian, iodine và cesium, tạo ra nhiệt dư. Còn một loại nguyên tố phóng xạ
khác, được tạo ra bên ngoài các bó thanh nhiên liệu. Loại nguyên tố phóng xạ
này sinh ra khi một số hạt neutrons, thay vì va chạm với các hạt nhân uranium
trong các thanh nhiên liệu, lại thoát ra khỏi bó thanh nhiên liệu, húc vào
các phân tử nước, hay khí quyển trong nước. Khi đó nguyên tố phi phóng xạ
trong nước hay khí quyển hấp thụ hạt neutron, trở thành phóng xạ, như
nitrogen 16, các khí trơ như argon, v.v. Nhưng những chất phóng xạ này có thời
gian bán hủy (half-life) rất ngắn, chỉ độ vài giây, sau đó chúng bị phân hủy
ngay thành các nguyên tố phi phóng xạ vô hại. Sự cố tại NMĐNT
Fukushima 1 đã xảy ra như thế nào? NMĐNT Fukushima 1 được thiết kế
chịu được động đất mạnh 7.9 độ Richter. Trận động đất hôm 13/1/2011 mạnh 9 độ
Richter tại tâm địa chấn ngoài biển cách đất liền 126 km, tương đương sức
công phá của 474 triệu tấn thuốc nổ TNT, gấp gần 50 lần sức chịu đựng của nhà
máy. Khi vào tới bờ, sức mạnh của động đất đã giảm xuống dưới 7.9 độ Richter,
tức nằm trong giới hạn chịu đựng của nhà máy. Rủi thay trong thiết kế của nhà
máy không lường trước khả năng tàn phá của sóng thần (tsunami) cao tới 10 m,
mà không ai tưởng tượng nổi. Ngay sau khi động đất nện vào
lúc 14:46, hệ thống tắt tự động đã cấm các thanh điều khiển vào lõi lò, làm
ngừng phản ứng phân hạch trong tất cả 5 lò vào lúc 14:48 (Lò số 4 đang ở
trong tình trạng bảo dưỡng nên đã ngừng hoạt động 4 tháng trước đó). Như vậy
chỉ còn lại nhiệt dư, chiếm khoảng 7 % toàn bộ nhiệt năng sinh ra trong lò,
là thứ cần phải dùng nước lạnh để làm nguội [3]. Hệ thống làm lạnh cần điện để
chạy máy bơm, nhưng toàn bộ các lò phản ứng đã ngừng hoạt động, không sản ra điện
nữa, ngoài ra toàn bộ các trạm phát điện khác xung quanh đã bị động đất làm
tê liệt. Người ta phải dùng máy phát điện chạy bằng động cơ Diesel. Nhưng
sóng thần cao 10m ập đến, làm tê liệt hoàn toàn các động cơ Diesel dùng để chạy
máy phát điện. Người ta buộc phải dùng tới battery dự trữ để chạy máy phát điện,
nhưng chỉ được 8 giờ đồng hồ là hết pin. Trong thời gian 8 giờ đó người ta vận
chuyển động cơ Diesel lưu động đến, nhưng không nối được. Kết quả là sau khi
hết nguồn điện dự trữ, nhiệt dư không thể làm nguội đi được nữa, đặt NMĐNT
Fukushima 1 trước nguy cơ lõi lò bị tan chảy. Thế nào là lõi lò bị tan chảy? Do
không đủ nước ngập các bó thanh nhiên liệu (các ống Zircalloy) bị lộ ra khỏi
mặt nước (tiếng Anh gọi là bị exposed), tiếp tục nóng lên. Khoảng 45 phút
sau, nhiệt độ vượt ngưỡng tới hạn 2200 độ C làm chảy vỏ gốm Zircalloy bao bọc
các viên uranium oxide. Sau khi đã dùng mọi phương án
làm nguội lò nhưng bất thành, người ta buộc phải hạ áp suất trong lò bằng
cách xả hơi nước tích tụ trong buồng áp suất ra ngoài qua các van. Nhiệt độ
lúc này khoảng 500 – 600 độ C. Nhằm tránh xả hơi thẳng vào môi trường bên ngoài,
người ta đã xả hơi vào phần không gian trong toà nhà bao bọc lò phản ứng. Như
trên đã đề cập, toà nhà này có tác dụng chủ yếu là che chắn mưa nắng, làm lớp
ngăn cách giữa phần bên trong NMĐNT với môi trường bên ngoài. Tòa nhà này bị
hư hại không có nghĩa là lò phản ứng bị hư hại. Nếu bó nhiên liệu không bị
tan chảy, hơi được xả ra mang theo nhiều nguyên tố phóng xạ trung gian đã đề
cập ở trên, như nitrogen hay argon, không gây nguy hiểm cho con người. Tại
nhiệt độ rất cao như vậy hơi nước bị phân tách thành hợp chất của khí
hydrogen và oxygen, gây phản ứng nổ. Bên cạnh đó, nếu bị phơi (exposed) vỏ gốm
Zircalloy gặp hơi nước tại nhiệt độ cao sẽ tạo ra phản ứng oxy hoá zirconium,
làm hydrogen thoát ra, kết hợp với oxygen gây phản ứng nổ. Đó là vì sao
các toà nhà lò phản ửng 1 – 3 bị nổ và lò 4 bốc cháy. Như vậy vấn đề áp suất xem như
đã được giải quyết. Tuy nhiên, nếu lò không được làm nguội, nước bốc hơi làm
mực nước cạn, lộ các bó thanh nhiên liệu ra, khiến các thanh nhiên liệu bị
tan chảy, như đã đề cập ở trên. Khi tan chảy như vậy, các nguyên tố sản phẩm
phụ như iodine và cesium sinh ra trong quá trình phân rã uranium thoát ra hoà
vào hơi nước xả ra ngoài. Khác với các nguyên tố phóng xạ trung gian sinh ra
bên ngoài các thanh nhiên liệu, có thời gian sống (chính xác là thời
gian bán hủy) chỉ vài giây, cesium 134 có thời gian bán hủy 2 năm
còn cesium 137 – tới 30 năm. Iodine gây nguy hiểm cho tuyến giáp, vì tuyến
giáp hấp thụ iodine trong máu. May thay iodine có thể bị cản không cho xâm nhập
tuyến giáp bằng cách uống potassium iodide (người lớn uống 130 mg/1 ngày, trẻ
em dưới 18 tuổi: 65 mg/ngày, trẻ từ 1 tháng – 3 tuổi: 32 mg/ngày, trẻ sơ sinh
tới 1 tháng tuổi: 16 mg/ngày). Còn cesium, tuy không tích tụ lâu trong người
do thoát ra theo đường bài tiết qua mồ hôi và nước tiểu, nhưng đọng lại trong
đất, nước, thực vật. Động vật trong đó có người bị nhiễm liên tục qua đường
tiêu hoá sẽ bị ung thư và vô sinh. Việc độ phóng xạ đo được rất cao bên ngoài
nhà máy ngay sau khi các toà nhà nổ tung, nhưng giảm đi nhanh chóng, cho thấy
phần lớn đó là các nguyên tố phóng xạ trung gian sinh ra bên ngoài các thanh
nhiên liệu. Trong khi đó việc đo được iodine và cesium trong phóng xạ thoát
ra là dấu hiệu cho thấy một phần của lõi lò đã bị tan chảy. Để tránh bị kích hoạt trở
thành chất phóng xạ, nước dùng làm nguội lò phải là nước sạch khỏi các khoáng
chất. Nếu nước chứa muối hay các tạp chất khác, những chất này sẽ hấp thụ
neutron, trở nên chất phóng xạ. Đối với việc làm nguội lõi lò thì việc dùng nước
gì không thành vấn đề. Nhưng xử lý nước nhiễm phóng xạ sẽ gây nhiều khó khăn.
Nhưng nước sạch không đủ, và người ta đã buộc phải bơm nước biển hoà boric
acide vào để làm nguội lò. Boron trong boric acid hấp thu các neutrons còn
sót lại, đóng vai trò chất xúc tác đẩy nhanh quá trình làm nguội lò. Trong trường hợp tồi tệ nhất,
nếu không làm nguội được lò, người ta vẫn phải tiếp tục xả hơi để làm giảm áp
suất trong buồng lò. Sau đó người sẽ buộc phải hàn kín hầm bê tông cốt thép
chứa giếng khô, giếng ướt cùng bể giảm áp, để cho lõi lò tan chảy trong đó mà
không xả chất phóng xạ ra ngoài. Rồi người ta lại phải đợi một thời gian để
các nguyên tố phóng xạ trung gian phân rã. Trong thời gian đó hệ thống làm lạnh
phải được phục hồi để làm nguội toàn bộ hầm bê tông chứa lõi đã bị tan chảy.
Tiếp đến là công việc nặng nhọc nạo vét hầm lò xử lý các chất thải của lõi lò
đã bị chảy. Việc thu dọn chiến trường này kéo dài vài năm. Các lò bị đánh đắm
bằng nước biển là những lò hỏng vĩnh viễn, không thể nào chữa đi để tái sử dụng
được nữa [4]. Vấn đề cấp bách phát
sinh hiện nay: Làm nguội các bó thanh nhiên liệu đã sử dụng Hình
4: Bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng Sau khi đã qua sử dụng, các
thanh nhiên liệu được rút ra khỏi lõi lò, ngâm trong nước trong một bể chứa
(spent fuel pool) nằm ngoài buồng áp suất (Hình 1: SF). Bể này (Hình 4) chứa
2000 tấn nước, hở phía trên để người ta dễ vận chuyển các thanh nhiên liệu đã
dùng và đã được làm lạnh, đem đi xử lý. Phần che chắn duy nhất của bể chứa là
toà nhà bao bọc lò phản ứng. Bể cần 50 tấn nước chảy qua mỗi ngày để làm nguội
các thành nhiên liệu. Nếu nước không đủ, hoặc bể chứa bị vụ nổ khí hydrogen
thoát ra từ lò trước đó làm hư hại khiến nước thoát ra ngoài, mực nước sẽ thấp
xuống, làm một phần các thanh nhiên liệu bị lộ ra khỏi mặt nước, tiếp xúc trực
tiếp với khí quyển. Do không đủ nước làm nguội, nhiệt độ tiếp tục tăng lên,
và các thanh nhiên liệu bị tan chảy sau khi nhiệt độ vượt ngưỡng tới hạn 2200
độ C, khí hydrogen gây hoả hoạn khiến các nguyên tố phóng xạ nguy hiểm cho sức
khoẻ còn người như iodine và cesium đã đề cập ở trên thoát vào môi trường với
số lượng lớn. Nhiều hay ít phụ thuộc vào số thanh nhiên liệu nằm trong bể chứa,
mà thông thường không vượt quá số thanh nhiên liệu đang sử dụng trong lò. Đó
là những gì thực sự đang xảy ra tại các lò số 1 – 3 trong ngày 15 và 16/3. Vì
không đủ máy phát điện đế bơm nước vào bể chứa, người ta đã thử dụng máy bay
trực thăng và vòi phun nước cuả cảnh sát để đưa nước vào bể qua lỗ thủng trên
mái toà nhà sau khi các toà nhà bị nổ hoặc cháy. Những biện pháp này cần người
điều khiển, vì thế không thể tiếp cận được toà nhà sau khi độ phóng xạ quanh đó
tăng cao đe doạ sức khoẻ của những người làm nhiệm vụ cứu hộ. Đó là vì sao,
trong ngày 16/3, máy bay trực thăng của quân đội phải rút lui sau khi độ
phóng xạ lên tới trên 50 milisieverts/giờ (mSv/giờ) ngay bên ngoài nhà máy.
Ngày hôm nay, 17/3, khi độ phóng xạ ở độ cao 90 m cách mặt đất tăng tới 87700
μSV/giờ, hai trực thăng của quân đội đã tiếp tục tưới nước. Sau khi vòi phun
trên xe cảnh sát phun không trúng mục tiêu, 5 xe đặc chủng của quân đội đã
phun 30 tấn nước vào bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng. Công ty điện
lực TEPCO vừa thông báo họ đã hoàn tất đường dẫn điện mới để cung cấp điện
cho các máy bơm nhưng không nói rõ khi nào đường điện đó sẽ có thể hoạt động.
Hãng General Electric, nơi đã sản xuất lò số 1, 2 và 6 của NMĐNT Fukushima 1,
đã bắt đầu vận chuyển máy phát điện từ Mỹ sang Nhật. Một khi nguồn điện được
khôi phục, người ta hy vọng hệ thống bơm trong bể chứa và lò sẽ hoạt động lại
và sẽ hoàn thành việc làm nguội toàn bộ các thanh nhiên liệu. Liều lượng phóng xạ Liều lượng phóng xạ được đo bằng
đơn vị sievert, viết tắt là Sv, theo tên cuả nhà vật lý y học người Thụy Điển,
Rolf Sievert. Đây là đơn vị đo năng lượng phóng xạ, tính bằng joule (J), ngấm
vào 1 kg vật chất: 1 Sv = 1 J/kg = 1 m2/giây2. 1 Sv = 1,000 mSv
(milisieverts) = 1,000,000 μSv (microsieverts). Như vậy 1 mSv = 1,000 μSv. Dưới đây là một số ví dụ về liều
lượng phóng xạ: - Một lần chụp răng bằng
X-quang: 5 μSv - Một chuyến bay khứ hồi Tokyo
– New York: 200 μSv - Một lần chụp kiểm tra ung thư
vú: 3,000 μSv - Một lần chụp CT scan ngực:
6,000 – 18,000 μSv - Phóng xạ tự nhiên trong cơ
thế con nguời: 400 μSv/năm, tức khoảng 0.046 μSv/giờ - Liều lượng phóng xạ cao nhất
mà con người có thể chịu được mà không bị tổn hại sức khoẻ: 5.7 μSv/giờ - Hút 1.5 bao thuốc lá mỗi
ngày: 13 mSv/năm, hay 1.48 μSv/giờ - Độ phóng xạ cao nhất bên
ngoài lò số 3 tại NMĐNT Fukushima: 400,000 μSv/giờ sau đó nhanh chóng giảm xuống
5,000 μSv/giờ - Vụ nổ NMĐNT tại Chernobyl:
300,000,000 μSv/giờ (300 triệu μSv/giờ), tức gấp 750 lần độ phóng xạ cao nhất
thoát ra tại Fukusima 1 - Phóng xạ đo được tại Tokyo
chiều 15/3/2011 (tức là sau khi toà nhà lò số 2 tại NMĐNT Fukushima 1 phát nổ):
0.8 μSv/giờ Theo số liệu đo hàng ngày của Ủy
ban khẩn cấp của viện Nghiên cứu Vật lý và Hoá học (RIKEN) tại thành phố
Wako, nơi tôi đang sống và làm việc, hồi 3 giờ sáng ngày 15/3, mức phóng xạ
là bình thường (0.04 μSv/giờ). Sau khi toà nhà lò phản ứng số 2 của nhà máy
Fukushima 1 phát nổ lúc 6:00 giờ sáng, tại Wako city mức phóng xạ đo được tăng
gấp 3 lần. Đến 10 giờ 37 mức đó tăng cao nhất, gấp 40 lần mức bình thường, nhưng
tới 14 giờ 30 thì giảm xuống còn 0.13 μSv/giờ, tức gấp 3.25 lần mức bình thường.
Tuy nhiên những con số này tại Wako city, kể cả lúc cao nhất (1.6 μSv/giờ) vẫn
còn ít hơn vài lần (ít hơn 3.6 lần) so với giới hạn cho phép của mức phóng xạ
mà con người có thể chịu mà không nguy hại cho sức khoẻ (50,000 μSv/năm tức
khoảng 5.7 μSv/giờ). Hai ngày sau, 16 và 17/3 độ phóng xạ tại Wako city ổn định
ở mức 0.13 – 0.14 μSv/giờ. Vì sao Fukishima 1
không phải là Chernobyl thứ hai? Vấn đề tối quan trọng hiện nay
là bơm đủ nước để làm ngập các thanh nhiên liệu đã qua xử dụng dựng trong bể
chứa, tránh cho chúng bị phơi ra không khí, làm nguội chúng, để chúng khỏi
tan chảy. Nếu không, một lượng lớn các chất phóng xạ sẽ thoát vào khí quyển.
Các chất phóng xạ phát ra các tia α (alpha), β (beta), γ (gamma). Hạt α nặng
và chậm, nên khả năng đâm xuyên yếu, không qua nổi một tờ giấy. Hạt β nhẹ và
nhanh, có khả năng đâm xuyên trung bình, dễ dàng bị chặn lại bằng một tấm
nhôm hay nhựa. Vì thế các hạt α và β không thoát nổi ra ngoài buồng áp suất của
lò phản ứng. Các tia γ có khả năng đâm xuyên lớn, nên người ta phải dùng những
tấm chì dày, hay tường bê tông để cản chúng. Một loại bức xạ nguy hiểm nữa là
bức xạ neutron, được tạo bởi các hạt neutrons tự do thoát ra từ phân hạch tự
phát hay phân hạch trong phản ứng dây chuyền của các hạt nhân uranium xảy ra
bên trong lõi lò. Neutron có khả năng đâm xuyên sâu, phá hủy các phân tử và
nguyên tử tạo nên vật chất, làm các chất không phóng xạ trở thành chất phóng
xạ (kích hoạt neutron), gây phàn ứng tạo ra bức xạ proton. Đối với neutron tấm
che chắn bằng kim loại nặng (như chì) trở nên không có hiệu lực. Người ta phải
dùng các chất liệu giàu hydrogen để cản các hạt neutrons (tường bê tông dày,
các khối paraffin, nước). Sau khi neutrons đã bị các chất liệu trên làm chậm
lại, người ta dùng các đồng vị như lithium 6 để hấp thụ neutrons. Trong thảm
hoạ Chernobyl (xảy ra vào ngày 26/4/1986 tại NMĐNT Chernobyl, Ukraine thuộc
Liên Xô cũ), do thiết kế sai và điều hành kém, hydrogen nổ ngay trong buồng
áp suất bên trong lò phản ứng trước khi các thanh điều khiển kịp ngừng phản ứng
dây chuyền, khiến toàn bộ lò nổ tung, văng tất cả nhiên liệu phóng xạ và các
nguyên tố phóng xạ độc hại sinh ra trong phản ứng dây chuyền ra ngoài môi trường
trong một vùng bán kính hơn 9 km. Một vụ nổ như tại Chernobyl hầu
như không có khả năng xảy trong sự cố NMĐNT Fukushima 1 bởi, từ lúc
14:48 ngày 13/3, ngay sau khi xảy ra động đất, hệ thống tắt tự động đã dừng
ngay các phản ứng dây chuyền trong tất cả các lò. Khả năng các lò này phát nổ
như một “quả bom bẩn” (dirty bomb) Chernobyl đã được loại trừ. Các vụ nổ khí
hydrogen tại NMĐNT Fukishoma 1 đều xảy ra bên ngoài lò phản ứng, không làm hư
hại hầm lò. Việc khắc phục hậu quả của
phóng xạ đã nhiễm vào khí quyển, đất, nước, thực vật là một vấn đề nghiêm trọng
khác đối với Nhật Bản và sẽ kéo dài trong nhiều năm tới. Wako city,
17/3/2011*) _______________ Chú giải: [1] Tới 30/3/2011 số người chết
lên tới 11,232 vượt xa số người chết trong trận động đất tại Kobe năm 1995
(6,434), số người mất tích: 16,361, khiến trận động đất ngày 11/3/2011 trở
thành thảm họa thiên nhiên gây nhiều tử vong nhất tại Nhật Bản kể từ sau Đệ
Nhị Thế Chiến. [2] Neutrons thoát ra trong phản
ứng phân hạch có năng lượng khoảng 2 MeV (2 triệu electron-Volts), tức chuyển
động với vận tốc khoảng 7% vận tốc áng sáng. Dù uranium 235 là nguyên tố
fissile, tức có thể phân hạch bởi cả neutron nhanh (năng lượng khoảng từ 100
eV trở lên) lẫn neutron chậm (năng lượng vào khoảng từ 1 eV trở xuống),
song tiết diện hấp thụ neutrons chậm của uranium 235 (~100 barns) lớn hơn khoảng
100 lần so với tiết diện hấp thụ neutron nhanh (~1 barn), và tiết diện phân hạch
tăng theo hàm mũ khi năng lượng (vận tốc) của neutron giảm xuống. Vì thế
trong các lò phản ứng NMĐNT các chất điều tiết (moderator) được dùng để giảm
vận tốc neutrons, chuyển các neutrons nhanh thành neutrons nhiệt
(thermal neutron, có năng lượng ~ 0.025 eV, tức chuyển động với vận tốc ~ 2
km/giây, khoảng 6 lần vận tốc âm thanh). Neutrons nhiệt tạo ra phản ứng phân
hạch dây chuyền khi bị uranium 235 hấp thụ. Khoảng 75% số NMĐNT trên thế giới,
trong đó có các lò tại NMĐNT Fukushima, dùng nước làm chất điều tiết; 20%
dùng chì than (graphite), ví dụ như lò RBMK (Реактор Большой Мощности Канальный)
đã bị nổ tại Chernobyl năm 1986; và khoảng 5% còn lại dùng nước nặng để
giảm vận tốc neutrons. [3] Đối với những lò đã chạy
liên tục hơn 100 giờ, ngay sau khi lò được tắt, nhiệt dư chiếm khoảng 7 %
toàn bộ nhiệt năng trong lò, 10 giây sau: giảm xuống còn khoảng 4 – 5 %, 1
phút sau: còn khoảng 3 – 4 %, 1 giờ sau: còn khoảng 1.5%, 1 tuần sau: chỉ còn
khoảng 0.2% (Xem đồ thị,
và một số kết quả tính
toán). [4] Ngày 30/3/2011 Cty Điện lực Tokyo (TEPCO) đã tuyên bố sẽ tháo bỏ vĩnh viễn các lò 1 – 4 của Fukushima 1. |