Nguyễn Đình Đăng Đáp số cho một
bài viết Trong bài Tự do trong sáng tạo,
tác giả Trần Văn Tích viết rằng tôi đã “cho biết âm nhạc, hội hoạ không được
hưởng tự do tuyệt đối.” Thực ra tôi không hề khẳng định như vậy. Bài viết Âm nhạc, hội hoạ, và kiểm
duyệt của tôi, tóm tắt lại, chỉ gồm hai ý sau: 1- Muốn hiểu được âm nhạc
và hội họa thì cũng cần phải học, và khi đã học rồi thì sẽ tránh được những
tranh cãi vô bổ. 2- Ở các nước văn minh
dân chủ (như Nhật Bản) chính quyền không can thiệp vào nghệ thuật. Điều 21 trong Hiến pháp Nhật Bản viết: “Quyền tự do hội họp, tự do
ngôn luận, tự do báo chí và tất cả các dạng khác của
biểu hiện được đảm bảo. Không được duy trì kiểm duyệt. Không được xâm phạm bí
mật thông tin dưới mọi hình thức.” Như vậy có nghĩa là, ở Nhật Bản, kiểm
duyệt là vi hiến. Như một số người
Việt Nam khác, tôi cũng muốn đất nước của tôi trở thành một nước văn minh dân
chủ, và nghệ sỹ Việt Nam nói riêng cũng như tất cả người dân Việt Nam nói
chung cũng được hưởng quyền tự do cao nhất của con người là tự do ngôn luận
và tự do biểu hiện, như các bạn nghệ sỹ và công dân Nhật Bản. Vì thế tôi đề
nghị nhà nước Việt Nam “giải tán mọi cơ quan kiểm duyệt văn hoá cũng như
bãi bỏ việc bắt các nghệ sĩ phải xin phép xuất bản, triển lãm, trình diễn tác
phẩm của mình” để “trả lại cho công chúng quyền tự đánh giá và phán
xét” càng sớm càng tốt. Đi đôi với việc này là việc đổi mới hệ thống giáo
dục đang hết sức trì trệ ở Việt Nam, ít nhất là theo một số giải pháp rất cụ
thể như tôi đã đề xuất trong bài “Tại
sao giáo dục Việt Nam khủng hoảng và đâu là lối thoát” viết cách đây 5
năm, trong đó có việc: 1) đưa âm nhạc và mỹ thuật vào giảng dạy ở trường phổ
thông, 2) tư nhân hoá toàn bộ việc xuất bản sách giáo khoa, 3) đảm bảo cho
các thày cô có thu nhập nuôi sống được gia đình họ, và 4) bãi bỏ toàn bộ kỳ
thi vào đại học. Tôi muốn lưu ý rằng,
trong bài viết của tôi, vài cô cậu học sinh Nhật tự bịt mắt mình khi nhìn thấy
tranh khỏa thân là học sinh trung học (có thể mới chỉ là năm đầu, tức độ 13
tuổi). Sau khi tốt nghiệp 3 năm trung học, bước vào cao học (tức 16 tuổi ), tất
cả học sinh ở Nhật đều đã được dạy kỹ về mỹ thuật thế giới, bao gồm từ bức “La
Grande Odalisque” không mảnh vải che thân của Dominique Ingres tới các kiệt
tác của Salvador Dalí mà ông Trần Văn Tích gọi là các bức tranh “siêu thực
mê sảng”, các tranh khỏa thân của Paul Cézanne, Henri Matisse v.v. Dĩ
nhiên là các cô cậu bây giờ không việc gì phải tự bịt mắt mình nữa sau khi đã
được học và đã tạm hiểu thế nào là nghệ thuật. Và cũng vì vậy mà ta cũng
không ngại các cô cậu sẽ lẫn lộn tự do tuyệt đối trong sáng tạo nghệ thuật với
tự do … tốc váy trước mặt nữ hoàng Anh, như ông Trần Văn Tích đã lo xa. Còn về các “quy định
rõ ràng” của một vài điạ điểm công cộng ở Nhật thì, như tôi đã giải
thích, lý do là vì có nhiều trẻ nhỏ lui tớí. Điều này cũng tương tự như TV (ở
Nhật) có các chương trình dành cho người lớn, mà trẻ em không nên xem, hay
các hiệu cho thuê băng video (ở Nhật) có quầy băng sex được che rèm. Đơn giản
có vậy thôi. Không phải vì có trẻ em mà đi cấm tất cả các chương trình dành
cho người lớn! Bảo tàng ở Jean Auguste Dominique
Ingres La Grande Odalisque,
sơn dầu, 91cm x 1,62m, 1814、Musée
du Louvre, Paris Các
nhận xét từ cuốn Prétextes (1903) của André Gide như câu ở đầu bài viết của
ông Trần Văn Tích cũng như đoạn “nghệ thuật luôn luôn có cưỡng chế là hệ
luận. Nghĩ rằng nghệ thuật càng vươn lên cao khi càng có tự do cũng giống như
nghĩ rằng cái dây níu con diều giấy lại không cho nó tung hoành trong bầu trời…”
mà ông Trần Văn Tích đã trích dẫn nhưng lại quên không để trong ngoặc kép, cần
được hiểu đúng văn cảnh của chúng. Nguyên văn câu này của Gide là: “L'art
est toujours le résultat d'une contrainte. Croire qu'il s'élève d'autant plus
haut qu'il est plus libre, c'est croire que ce qui retient le cerf-volant de
monter, c'est sa corde.” Tuy nhiên dịch: “L'art est toujours le
résultat d'une contrainte.” thành “Nghệ thuật luôn luôn có cưỡng chế là hệ luận.”
theo tôi không được chính xác, nếu không nói là nhầm lẫn. Câu này cần được dịch
là: “Nghệ thuật luôn là kết quả của một sự hạn chế do bị ràng buộc.”
thì đúng hơn, vì “cưỡng chế” (强制) trong
tiếng Hán - Việt có nghĩa là “dùng sức mạnh để bắt phải tuân theo”. 34 tuổi, Gide nhận ra rằng “Vẻ đẹp không
bao giờ là một sản phẩm tự nhiên; mà chỉ có được nhờ những hạn chế nhân tạo.
Nghệ thuật và Tự nhiên cạnh tranh với nhau trên trái đất.”(Nguyên văn:
“La beauté ne sera jamais une production naturelle; elle ne s'obtient que par
une artificielle contrainte. Art et Nature sont en rivalité sur terre."
- Nouveaux Prétextes, 1904). Điều này khá đơn giản nếu ta nhớ tới, chẳng
hạn, tỉ lệ vàng như một hạn chế phải tuân theo trong nghệ thuật và kiến
trúc từ thời Phục Hưng. Những hạn chế do ràng buộc này từng được các thiên
tài vận dụng để tạo nên các kiệt tác. Ví dụ, chỉ dùng đá cẩm thạch mà
Michelangelo gây cho ta ảo giác về da thịt trên tượng David. Chỉ dùng phấn đỏ
và giấy mà Leonardo Da Vinci đã tả chất liệu của nếp vải rất tuyệt vời. Moses variations được Nicolo Paganini viết cho riêng một dây
Sol của đàn vĩ cầm (violin). Đó là những vẻ đẹp do con người sáng tạo ra
trong phạm vi các hạn chế do chất liệu ràng buộc. Nhưng cũng chính vì thế mà
đó là những vẻ đẹp không thể có được trong tự nhiên. Song, những hạn chế ràng
buộc để tạo nên các vẻ đẹp đó chẳng liên quan gì đến tự do sáng tạo bị cưỡng
chế (theo đúng nghĩa của từ này) bởi sự kiểm duyệt của chính quyền mà bài viết
của tôi đề cập. Điều này cũng tương tự như việc viết văn theo đúng văn phạm
không có liên quan gì đến việc các câu văn bị cắt đi bởi kiểm duyệt. Trong
khi đó, ông Trần Văn Tích buộc một độc giả như tôi phải hiểu rằng, nghệ sĩ được
ví như con chim, còn kiểm duyệt thì được ví như không khí nâng cánh con chim,
nhờ đó mà nó mới “đập cánh tung mình” lên được! Tiếp tục suy diễn “à la Mr.
Trần Văn Tích”, ta sẽ thấy nếu không có kiểm duyệt, nghệ sĩ chẳng những không
bay lên được, hoặc sẽ rơi tòm từ trên không xuống nếu đang bay, mà còn chết
tươi vì thiếu không khí để thở hít. Chúng
ta không nên quên rằng, các tác phẩm của André Gide phản ánh một cuộc đấu
tranh nội tâm giữa một bên là các ước lệ xã hội một bên là cái tôi chân thật
nhất mà Gide luôn muốn đạt tới. Cũng không nên quên rằng, vào năm 1904 Gide
chỉ có thể biết được đến hội hoạ và âm nhạc ấn tượng là cùng. Thậm chí trường
phái dã thú (fauvism) phải một năm sau mới được nhận tên khai sinh tại Salon
d'Automne ở Paris (năm 1905), nói chi đến hội họa lập thể (cubism), trừu tượng
(abstractionism), siêu thực (surrealism), cực thực (hyperrealism), hay âm
nhạc phi điệu (atonal music) của Arnol Schönberg, v.v. sau này, là những thứ
ngày nay đã trở thành kinh điển cho những ai học hội hoạ và âm nhạc. Năm
1930, tức là 26 năm sau khi viết Prétextes và Nouveaux Prétextes, Gide (lúc
đó đã 61 tuổi) được mời sang thăm Liên Xô với tư cách là một nhà văn thân cộng.
Kết quả của chuyến đi này là cuốn “Từ Liên Xô trở về” (Retour de
L'U.R.S.S.) viết năm 1936, trong đó Gide cho thấy ông đã “sáng mắt” ra
như thế nào sau khi được mục kích xã hội Liên Xô dưới chế độ của Stalin. Ông
nói ông phải viết cuốn sách đó để “nhân dân lao động hiểu là họ bị những
người cộng sản lừa dối, như họ đang bị “Bao
năm trời tôi tưởng tôi la hét trong sa mạc hoang vu không có ai nghe, sau đó
thì cũng chỉ nói được với một số rất ít thính giả, song hôm nay các vị đã chứng
minh cho tôi thấy rằng tôi đã đúng khi tin vào tư chất của một thiểu số, và rằng
sớm hay muộn thiểu số đó sẽ thắng thế.” Đó là lời của André Gide trong diễn từ nhận giải Nobel
văn chương năm 1947 mà tôi trích thay lời kết với hy vọng cái ngày Việt Nam
có được một André Gide của mình sẽ không còn quá xa. Tokyo |