7.6.2006
Nguyễn Đình Đăng
Hội họa hiện đại Việt
Trong bài “Cận đại,
hiện đại và đương đại” tác giả Nguyễn Đình Thành có yêu cầu tôi giải
thích cái gì cho phép tôi lúc thì dịch “modern” là “hiện đại” lúc dịch là “cận
đại” trong bản dịch bài “Nghệ
thuật của chiến tranh” của Matthew Larking. Nói gọn lại tức là chữ
“modern” trong tên tiếng Anh của triển lãm “50 Years of Modern Vietnamese
Painting” cần phải được dịch là “cận đại” hay “hiện đại” đây? Cũng như ông Nguyễn Đình Thành, tôi cũng đã đặt câu hỏi như vậy khi
dịch bài của Larking ra tiếng Việt. Vì thế tôi cảm ơn
ông Thành đã nêu ra vấn đề này để tôi có dịp giải thích dưới đây.
Trước khi xem triển lãm “50 Years of Modern Vietnamese Paintings: 1925-1975” ở
Tokyo Station Gallery và dịch bài “Nghệ thuật của chiến tranh” của Larking, tôi
đã biết rằng có hai thuật ngữ trong hội họa Việt Nam là “hội họa hiện đại” dùng
để chỉ hội họa Việt Nam từ sau khi thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (1925)
đến khoảng những thập niên 70–80 của thế kỷ trước. Còn “nghệ
thuật đương đại Việt
Sau khi xem triển lãm nói trên và bắt tay vào dịch bài viết của Matthew Larking
tôi thấy tên nguyên văn tiếng Nhật của triển lãm này làベトナム近代絵画展, trong đó chỉ có chữ “Việt Nam” (ベトナムđọc là “bê-tô-na-mư”) là được viết bằng
chữ katakana - chữ do người Nhật chế tạo ra dựa trên chữ Hán. Phần còn lại là chữ Hán chính gốc. Nếu dịch chữ 近代 (“cận đại” theo phiên âm Hán-Việt
hay “kin-đai” theo lối phát âm của ngườI Nhật) sát nghĩa với gốc Hán-Việt thì sẽ
là “Triển lãm hội họa cận đại Việt Nam”, vì chữ “現代” (gen-đai) mới là “hiện đại”. Theo
cách hiểu thông thường của người Nhật đối với những khái niệm như nghệ thuật
thì 近代 (cận đại) được
dùng để chỉ “modern”, còn 現代 (hiện đại) được dùng để chỉ “contemporary” (đương đại). Tôi thấy như vậy
có vẻ hợp lý vì “modern art” không phải là nghệ thuật của thời hiện nay, mà là
thuật ngữ chỉ một thời kỳ nghệ thuật từ cuối thế kỷ 19 đến khoảng những thập
niên 70 của thế kỷ trước, tức là chỉ ở gần thời hiện nay. Như vậy dịch “modern
art” là “cận đại” (近代) thì hợp với
cảm giác thông thường về thời gian hơn là “hiện đại” (現代), là chữ (người Nhật) dùng để chỉ
“đương đại” (contemporary). Tiếng Nhật không có chữ 當代 như trong tiếng Trung Hoa (phát âm:
đāng-đài) dùng để chỉ “đương đại”.
Dùng chữ “hội họa cận đại” để dịch chữ近代絵画từ gốc chữ Hán theo nghĩa “modern
painting” của tiếng Anh, như một cách phân loại trong ngữ cảnh nói trên, còn
tránh được nhầm lẫn với “modernism”, mà tôi dịch là “chủ nghĩa hiện đại”, như một
quan niệm.
“Modernism” dịch sang tiếng Nhật hay tiếng Trung Hoa (Hán) đều là “現代主義” có nghĩa là “chủ nghĩa hiện đại”.
Tuy nhiên chữ “現代” trong cả tiếng
Nhật (phát âm: gen-đai) lẫn tiếng Trung Hoa (phát âm: xiàn-đài) bây giờ lại có
nghĩa là “hiện đại” chứ không phải là “đương đại” như đã nêu ở trên. Modernism là một trào lưu văn hóa xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 - đầu
thế kỷ 20. Chủ nghĩa hiện đại (modernism) được khởi đầu bằng các tác phẩm
văn chương của Beaudelaire, hội họa của Manet, triết học của Nietzsche, phân
tâm học của Freud. Chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật hầu
như song hành với sự ra đời của lý thuyết tương đối của Einstein trong vật lý,
và sự phát triển mạnh của công nghệ với động cơ đốt trong. Những văn nghệ
sĩ theo trào lưu này tuyên bố rằng các hình thái “truyền thống” trong nghệ thuật,
văn chương, tổ chức xã hội đã trở nên lỗi thời, cần phải dẹp bỏ, và thay thế bằng
một nền văn hóa mới. Modernism (chủ nghĩa hiện đại) chủ
trương xét lại mọi lĩnh vực của xã hội loài người nhằm tìm ra nguyên nhân kìm
hãm tiến bộ xã hội và thay thế sự kìm hãm đó bằng cách đi mới, tốt hơn. Theo modernism (chủ nghĩa hiện đại) thì những cái gì mới (cách tân)
cũng đồng thời là tốt (thiện) và đẹp (mỹ) luôn. Chữ “hiện đại” trong
modernism (chủ nghĩa hiện đại) nhằm nói lên cái gì đó mới, ngược lại với cái
cũ, cổ điển, hay truyền thống.
Như vậy, hội họa Việt
Đầu đuôi của lý do dùng chữ “hội họa cận đại” cho hội họa Việt Nam giai đoạn
1925-1975 và “chủ nghĩa hiện đại” cho “modernism” hoặc một số đoạn trong đó từ
“modern” được dùng để nói đến nghệ thuật mới, khác với cái cũ, cổ điển, hay
truyền thống, trong bản dịch của tôi là như vậy. Tôi không phản đối nếu ông
Thành hay một số thậm chí nhiều người khác dùng chữ “nghệ thuật hiện đại” thay
cho “nghệ thuật cận đại” trong tiếng Việt (nói một cách chính xác là Hán-Việt)
vì hai thuật ngữ này chỉ có một nghĩa là “modern art” trong tiếng Anh như đã
nói ở trên mà thôi. Tuy nhiên chữ “hiện đại” trong tiếng Việt dễ bị lẫn lộn
với “đương đại” (như đã xảy ra với ví dụ đưa tin của VNExpress, mà ông
Thành đã trích dẫn, về chính cuộc triển lãm nói trên). Trong một số trường hợp,
“hiện đại” trong tiếng Việt lại bao hàm luôn cả “đương đại”. Vì thế, để tránh lầm
lẫn, tôi dùng chữ “hội họa cận đại” để dịch chữ “modern painting” hay “近代絵画” thay vì dùng chữ “hội họa hiện đại”.
Theo thiển kiến của tôi, tiếp theo triển lãm “50 năm hội họa cận đại Việt Nam:
1925–1975” ta cần có một triển lãm “Hội họa cận đại Việt Nam giai đoạn từ sau
1975 đến khoảng 1990-1995” (ví dụ “20 Years of Modern Vietnamese Painting:
1975–1995”) ở Tokyo để công chúng Nhật Bản thấy được hội họa Việt Nam đã có một
biến chuyển đáng kể về chất so với giai đoạn nửa thế kỷ trước đó, nhất là thời
kỳ từ sau Đổi mới (khoảng từ sau 1985). Tôi chắc rằng khi đó
Matthew Larking sẽ có một bài viết khác với một đánh giá khác. Ít nhất đó sẽ không còn là nghệ thuật của chiến tranh nữa.
Tokyo, 6 tháng 6 năm 2006
© 2006 talawas