Thomas Mann Thần đồng Nguyễn Đình Đăng dịch Lời người dịch: Thomas Mann
(1875 – 1955) viết truyện ngắn gThần đồngh
(Das Wunderkind) khi ông 28 tuổi,
hai năm sau tiểu thuyết đầu tay Buddenbrooks
(1901) làm nên tên tuổi ông. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1929
chính là nhờ Buddenbrooks, Der Zauberberg (Ngọn núi thần kỳ) (1924), và các truyện ngắn của mình. Khi Hitler
lên cầm quyền vào muà xuân 1933, Thomas Mann và gia đình đang ở Thụy Sĩ. Từ
đó ông không bao giờ quay lại quê hương nữa. Năm 1936 chính thể Quốc Xã tước
quốc tịch Đức của ông. Đặt chân tới Mỹ năm 1938, Mann nói: gTôi ở đâu thì ở đó là nước Đứch. Năm
1939 ông nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Dân chủ, theo Thomas Mann, phải dựa trên lòng
tin vào phẩm giá cơ bản của con người. gThần đồngh (1903) mô tả xung đột giữa
một bên là khí chất nghệ sĩ và bên kia là cách hấp thụ nghệ thuật của giới
thượng lưu dựa trên sự giàu có vật chất. Các nhận xét của khán giả, quan điểm
của chính thần đồng, giọng văn hài hước của Mann vẽ nên bức tranh hiện thực
phê phán xã hội. Nhiều khán giả tỏ ra rất đạo đức giả, đặc biệt là nhà phê
bình. Họ vừa muốn tìm ra khuyết điểm của thần đồng nhưng cũng lại vừa muốn được
nổi tiếng và được tôn sùng như cậu. Thần đồng khinh bỉ khán giả. Điều đó gợi
lên bản chất đạo đức giả của chính nghệ thuật và nghệ sĩ. ______________ Thần đồng bước ra. Khán phòng trở nên yên lặng. Khán phòng trở nên yên lặng rồi khán giả bắt
đẫu vỗ tay, vì từ đâu đó, ở mé bên, một xếp sòng của công chúng, vốn là một
người có tài tổ chức bẩm sinh, đã vỗ tay trước. Khán giả tuy chưa nghe thấy
gì, song họ vẫn cứ vỗ tay vì một tổ chức quảng cáo hùng mạnh đã thông báo về
thần đồng và khán giả đã bị thôi miên, bất kể họ có nhận thức được điều đó
hay không. Thần đồng bước ra từ sau một bức bình phong lộng
lẫy thêu các tràng hoa đế vương và hoa cách điệu, nhanh nhẹn bước mấy bậc
thang đi lên sàn diễn, đắm mình trong tiếng vỗ tay như ngụp trong bồn tắm,
hơi lạnh lùng và hồi hộp một tí, song tỏ vẻ thân mật như đang gặp người quen.
Cậu tiến ra sát mép sân khấu và nở nụ cười như thể để cho người ta chụp ảnh;
cậu cúi chào bẽn lẽn nhưng duyên dáng như một bé gái. Cậu vận một bộ đồ toàn bằng luạ trắng từ đầu
tới chân khiến khán giả mê mẩn. Chiếc áo vét nhỏ màu trắng được cắt may lạ kiểu
có một dải băng cuốn bên dưới, và đến đôi giầy của cậu cũng được làm bằng lụa
trắng. Thế nhưng cặp giò trần của cậu ta lộ màu rất nâu tương phản với đôi tất
trắng, bới vì đó là một cậu bé Hy Lạp. Người ta gọi cậu là Bibi Saccellaphylaccas.
Và đấy chính là tên thật của cậu. Chẳng ai biết vì sao lại có cái tên cưng ấy,
chẳng một ai ngoài ông bầu, và ông ta coi đó như một bí mật kinh doanh. Bibi
có mái tóc đen mượt dài chấm vai, được rẽ ngôi lệch về một bên, chải về phía
sau vầng trán hẹp và lồi, rồi được
buộc túm lại bằng một chiếc nơ lụa nhỏ. Cậu mang vẻ mặt ngây thơ bậc nhất thế
giới, với cái mũi chưa phát triển hết, cái miệng vô tội. Vùng dưới đôi mắt
đen láy như mắt chuột nhắt của cậu đã hơi mỏi mệt, hằn rõ nếp nhăn. Trông cậu
có vẻ như lên 9 tuổi, nhưng thực sự mới 8 tuổi, và được khai là mới 7 tuổi.
Thật khó nói rằng có nên tin điều này hay không. Có lẽ mọi người đều đã biết
cả nhưng vẫn tin, như từng xảy ra với bao nhiêu chuyện khác. Người tầm thường
hay nghĩ rằng phải có một tí ti giả dối thì mới hay ho. Chúng ta lấy đâu ra hứng
khởi từ cuộc sống hàng ngày của mình nếu không muốn giả vờ một chút? Và những
người tầm thường đã rất chí lý, trong khuôn khổ những cái sọ não tầm thường của
họ! Thần đồng vẫn cúi chào cho đến khi dứt tiếng
vỗ tay, rồi cậu tiến về phía chiếc đại dương cầm, trong lúc khán giả ghé mắt
nhìn qua chương trình biểu diễn một lần cuối. Mở đầu là bản Hành khúc trọng thể, kế đến là Mơ mộng, rồi Con cú và bầy chim sẻ - tất cả đều do Bibi Saccellaphylaccas sáng
tác. Toàn bộ chương trình là của cậu, gồm toàn sáng tác của cậu. Cậu không thể
viết ra thành nốt nhạc, dĩ nhiên rồi, nhưng cậu đã ghi nhớ toàn bộ sáng tác
trong cái đầu bé bỏng phi thường của cậu, và tất cả các tác phẩm này đều có tầm
quan trọng thực sự về nghệ thuật. Có vẻ như ông bầu đã phải tranh đấu vất vả
với óc phê phán của mình để chọn ra những tác phẩm in trong chương trình. Thần đồng ngồi xuống chiếc ghế xoay và giẫm
thử bàn đạp, đã được một thiết bị thông minh nâng lên để Bibi có thể với chân
tới. Chiếc dương cầm là của chính Bibi, đi đâu cậu cũng mang nó theo. Chiếc
đàn được kê lên mấy cái đôn bằng gỗ, và nước bóng của nó đã bị xây sước do vận
chuyển thường xuyên – song tất cả những thứ đó chỉ khiến cho sự kiện trở nên
hấp dẫn hơn. Bibi giẫm chân đi giầy lụa lên bàn đạp; cậu
ngẩng khuôn mặt nhỏ bé, làm ra vẻ nghệ sĩ, nhìn thẳng về phía trước, rồi nhấc
tay phải lên. Đó là một bàn tay trẻ con, màu nâu, nhưng cổ tay khỏe, và có khớp
xương to, không như tay trẻ con. Bibi làm bộ mặt nghệ sĩ cho khán giả bởi cậu
biết rằng cậu phải chiều họ một chút. Nhưng cậu cũng có cái khoái trá cho
riêng cậu, cái khoái trá mà cậu không thể giãi bày với bất cứ ai. Đó là cái
khoái cảm nhoi nhói, cái rùng mình thầm kín của niềm sung sướng, chạy suốt cơ
thể cậu mỗi lần cậu ngồi trước chiếc dương cầm mở nắp – cảm giác lúc nào cũng
đồng hành với cậu. Lại vẫn là phím đàn đây rồi, bảy quãng tám trắng và đen,
mà bao phen cậu từng lạc giữa chúng trong những cuộc phiêu lưu ly kỳ vô cùng
tận – vậy mà lúc nào phím cũng luôn sạch bóng như chưa có ai đụng đến, tựa
như cái bảng đen vừa được lau chùi. Đó là vương quốc của âm nhạc đang mở ra
trước cậu. Nó trải rộng như đại dương đang mời gọi, nơi cậu có thể gieo mình
xuống và sung sướng bơi tung tăng, để mặc cho sóng nâng lên, cuốn đi, trong
đêm đen và bão tố, nhưng vẫn giữ vững tài nghệ của mình: sự tự chủ và tính kỷ
luật – cậu nhấc tay phải lên và giữ nó lơ lửng trong không trung. Yên lặng nín thở bao trùm khán phòng – khoảnh
khắc căng thẳng trước lúc vang lên nốt nhạc đầu tiênc Bắt đầu sẽ như thế nào?
Như thế này. Và Bibi, dùng ngón tay trỏ, bóc nốt nhạc đầu tiên ra khỏi chiếc
dương cầm, một nốt nhạc rất bất ngờ từ khoảng giữa phím đàn, vang lên như tiếng
kèn trumpet. Các nốt khác nối tiếp theo, hoà thành khúc mở đầu – khán giả
chùng xuống. Buổi hoà nhạc diễn ra tại đại sảnh của một
khách sạn thời thượng hạng nhất. Các bức tường được phủ kín gương có khung chạm
khắc hoa văn, xen giữa các bức bích hoạ của một trường phái hồng hào lắm xác
thịt. Các cột trang trí chống đỡ trần nhà, nơi trưng bày cả một vũ trụ của
bóng đèn điện, treo thành chùm, phóng ra những tia sáng chói hơn ban ngày,
khiến toàn đại sảnh ngập chìm trong làn ánh sáng mỏng, lung linh như kim nhũ.
Không một ghế nào trống, nhiều người đứng lố nhố trên các lối đi ở hai bên và
phía sau. Chỗ ngồi ở những hàng ghế đầu có giá 12 Mark, vì ông bầu tin rằng
tất cả những gì đáng có đều đáng tiền. Giới thượng lưu chiếm trọn các hàng ghế
đầu, vì lẽ dĩ nhiên các tầng lớp trên thường bao gồm những người nhiệt tình
hăng hái nhất. Có cả một số trẻ em, bẽn lẽn đong đưa chân dưới ghế, ngước những
đôi mắt long lanh chăm chú nhìn người đồng niên bé nhỏ, tài năng, vận đồ trắng. Phía sau, ngồi ở hàng đầu cánh trái là mẹ của
thần đồng, một người đàn bà mập thù lù, hai cằm bự phấn, tóc cắm một cái lông
chim. Cạnh bà là ông bầu, một người đàn ông mang diện mạo Á Đông, cổ tay áo
cài cúc vàng trông bắt mắt. Công chúa ngồi chính giữa hàng ghế đầu tiên – một
bà công chúa già bé nhỏ, nhăn nheo khô héo, nhưng vẫn là một nhà bảo trợ nghệ
thuật, đặc biệt cho những gì mang đầy tính đa cảm. Bà ta ngự trên một chiếc ghế bành sâu
bọc nhung, một tấm thảm Ba Tư trải dưới chân bà. Bà ngồi khoanh tay trước ngực
áo lụa kẻ sọc xám, đầu nghiêng về một bên, biểu thị một vẻ bình thản tao nhã
trong khi xem thần đồng trình diễn.
Ngồi cạnh bà là một thị nữ vận đồ luạ kẻ sọc màu lục. Vì chỉ là một thị
nữ, cô này luôn phải ngồi lưng rất thẳng trên ghế của mình. Bibi kết thúc trong đại cao trào. Cậu lùn tí
xíu đó phang nhừ tử phím đàn với một sức mạnh kinh người! Khán giả khó có thể
tin vào tai mình. Chủ đề hành khúc, giai điệu nhịp nhàng dễ lây lan, lại vang
lên một lần nữa, hài hoà hoàn toàn, táo bạo và phô trương. Cứ mỗi lần chơi một
nốt nhạc, Bibi lại nảy người ra phía sau như thể cậu đang nhịp bước trong
đoàn quân chiến thắng. Cậu kết thúc bằng fortissimo[1],
cúi mình về phía trước, tụt xuống ghế về phía bên, rồi đứng thẳng người đợi
tiếng vỗ tay hoan hô. Và tiếng vố tay nổ tung ra, đồng loạt, cuồng
nhiệt. Cậu bé nhún chân bẽn lẽn cúi chào, duyên dáng như một trinh nữ và khán
giả ngồi ở hàng ghế đầu nghĩ: gXem kìa, cái hông của nó mới thon thả làm sao!
Bộp, bộp! Hoan hô, bravo, thằng oắt con. Saccophylax hay tên mày là gì cũng
được! Đợi tí, để tao tháo găng tay ra đã nào - đúng là một thằng quái con!h Từ sau bức
bình phong Bibi phải quay trở lại sân khấu ba lần trước khi khán giả ngừng vỗ
tay. Một số người đến muộn, tiến vào phòng và nháo nhác tìm chỗ của mình. Thế
rồi buổi hoà nhạc tiếp tục. Bản Mơ mộng
của Bibi gồm toàn các quãng rải thì thầm, trên nền đây đó nổi lên một giai điệu,
khe khẽ vỗ cánh. Kế đến là Con cú và bầy
chim sẻ. Nhạc phẩm này thành công rực rỡ, gây ấn tượng mạnh. Đó là một tưởng tượng rất phong phú
và rõ nét của tuổi thơ. Bè trầm diễn tả con cú ủ rũ đậu trên cành đang đảo cặp
mắt mờ, trong khi bè cao láy tiếng những con sẻ vừa khinh suất lại vừa sợ sệt.
Khi kết thúc, Bibi được khán giả hò reo tán thưởng, và phải ra chào bốn lần.
Người phục vụ khách sạn mặc áo cài cúc lấp lánh bê lên sân khấu ba vòng nguyệt
quế lớn và đứng một bên để tặng trong lúc Bibi gật đầu cảm ơn. Đến bà công
chúa cũng tham gia hoan hô, ép hai bàn tay vào nhau một cách thanh nhã không
phát ra tiếng. Chà, con người bé nhỏ
láu lỉnh kia thực biết cách làm cho người ta vỗ tay! Cậu nán lại sau bức bình
phong, khiến người ta phải chờ đợi; cậu ngập ngừng chút xíu trên bậc thang sân
khấu, ngắm nghía mấy cái đuôi nheo dài thắt trên các vòng hoa - mặc dù thực
ra những thứ này giờ đây đã làm cậu chán ngấy đến tận cổ. Cậu cúi chào cực kỳ
quyến rũ. Cậu cho khán giả khá nhiều thời gian để họ nguôi đi, bởi vì các
tràng vỗ tay là quý giá và không được cắt ngắn. gCon Cú là con át chủ bài của ta,h cậu nghĩ, - cậu học được câu
này từ ông bầu. gBây giờ ta sẽ chơi bản Fantaisie,
bản này dĩ nhiên hay hơn Con Cú nhiều,
nhất là đoạn chạy Đô thăng. Nhưng lũ ngu độn các người vẫn mê Con Cú như điếu đổ, cho dù đó là bản
nhạc đầu tiên và ngớ ngẩn nhất mà ta từng viết.h Cậu tiếp tục cúi chào và mỉm
cười. Tiếp đến
là khúc Trầm tư và sau đó là một Etude – chương trình thật toàn diện. Trầm tư khá giống Mơ mộng – tức là hết chê – còn Etude phô bày toàn bộ kỹ thuật điêu luyện của Bibi, tuy rằng dĩ
nhiên đã làm tính sáng tạo vốn có của cậu bị giảm đi nhiều. Sau đó đến Fantaisie. Đây là bản nhạc cậu thích
nhất. Mỗi lần trình diễn cậu lại biến tấu nó đi một tí, tự thả lỏng hoàn toàn
và đôi khi, trong những đêm diễn may mắn, chính cậu cũng ngạc nhiên vì tài
sáng tạo của mình. Cậu ngồi chơi đàn, bé bỏng, trắng tinh và ngời
sang trước chiếc đại dương cầm
đen to đùng, ưu tú và đơn độc, bay trên cái biển mơ hồ lộn xộn những bộ mặt,
bay trên linh hồn của đám đông vô cảm, mà vì nó cậu đã gắng sức lao động bằng
cả tâm hồn độc đáo của riêng cậu. Lọn tóc đen mềm mại buộc nơ trấng của cậu
đã xoà xuống trán, hai cổ tay nhỏ bé xương xẩu của cậu giã lên giã xuống liên
hồi, cơ mặt nổi rõ trên đôi má trẻ con của cậu. Ngồi đó đôi khi cậu cảm thấy những khoảnh khắc
mình bị lãng quên và cô đơn, khi ánh mắt kỳ lạ đen như mắt chuột nhắt và thâm
quầng của cậu nhìn lạc qua sân khấu sơn son đắm chìm vào không gian chứa đầy
những con người với những cuộc đời mơ hồ lạ lẫm. Rồi liếc nhìn lại khán
phòng, cậu lại quay về với khán giả. gNiềm sung sướng và nỗi đớn đau, các tầm cao
và các chiều sâu – đó là bản Fantaisie
của ta,h cậu âu yếm nghĩ. gHãy nghe đây, đây chính là đoạn chạy Đô thăng.h Cậu
chơi giãn nhịp một chút khi gần đến đoạn chạy, tự hỏi không biết họ có nhận
ra tí gì chăng. Nhưng không, tất nhiên là không, làm sao họ nhận ra được? Và
cậu đưa mắt lên tận trần nhà để ít nhất những con người kia có cái mà nhìn. Tất cả những con người kia đang ngồi đó trong
các hàng ghế ngay ngắn, xem thần đồng chơi đàn, và nghĩ ngợi lung tung trong
những cái sọ não ngay ngắn của họ. Một lão thượng lưu râu bạc, ngón tay đeo
nhẫn có gắn con dấu, đầu hói sưng lên một cái bướu, một khối u nếu quý vị muốn,
thầm nghĩ: gNhục nhã thật.h Lão chưa bao giờ chơi trên dương cầm được cái gì
khó hơn bài gKìa anh, Augustin thương mến
nhất đời, và bây giờ lão ngồi đây, một lão già tóc hoa râm, nhìn cậu bé
tí hon vận đồ trắng trình diễn các phép mầu. Phải rồi, phải rồi, đó là năng
khiếu Trời cho, chúng ta phải nhớ lấy điều đó. Trời ban cho năng khiếu, hoặc
từ chối không ban cho, và không việc gì phải cảm thấy xấu hổ khi làm một người
bình thường. Như với Chúa Hài Đồng ấy. – Ta có thể quỳ gối trước một đứa trẻ
mà đâu có thấy nhục nhã gì. Thật lạ là những ý nghĩ đại loại như vậy lại làm
lão cảm thấy rất thỏa mãn – thậm chí lão có thể nói ra là chúng ngọt như mía
lùi, nếu lối nói này không quá ngớ ngẩn đối với một lão già cứng rắn như lão.
Dù sao thì lão cũng đã thầm nghĩ như vậy. Nghệ thuậtc gã thương gia có cái mũi mỏ vẹt
nghĩ. gĐúng, nghệ thuật tô điểm thêm cho cuộc sống, thêm tí lụa trắng đẹp,
thêm tí chát-xình-chát-chát-bùm. Nó chơi thật không đến nỗi quá dở. Kín năm
mươi chỗ, mười hai Mark một chỗ, vị chi là sáu trăm Mark – chưa kể những thứ
khác. Trừ đi tiền thuê khán phòng, tiền điện và tiền in chương trình, phải
lãi đến một ngàn Mark là cái chắc. Kể cũng đáng.h gNó đang chơi Chopin,h bà giáo dạy dương cầm
có cái mũi nhọn hoắt nghĩ. Bà ta ở cái độ tuổi khi hiểu biết trở nên sâu sắc
còn mọi hy vọng thì đã tiêu tan. gNhưng
không độc đáo lắm – ta sẽ nói điều này sau. Tiếng đàn nghe được. Còn thế tay
của nó thì hoàn toàn nghiệp dư. Phải đặt được một đồng xu lên mu bàn tay khi
chơi đàn mà đồng xu không rơi xuống đất thì mới gọi là đạt. Vào tay ta thì đã
ăn mấy cái vụt thước kẻ.h Rồi đến một cô gái trẻ ở cái tuổi thẹn thùng
e ấp và xanh lướt như cớm nắng của cuộc đời khi tư duy hay nảy sinh những ý
tưởng khó nói ra nhất. Cô nghĩ thầm: gCậu ta chơi bài gì vậy nhỉ? Cậu biểu hiện
tình yêu mê say, tuy vẫn còn là đứa trẻ con. Nếu cậu ta hôn mình thì cũng tựa
như thằng em mình hôn mình vậy thôi – hoàn toàn không phải là hôn. Liệu có
cái gọi là tình yêu tự thân không, không cần bất kỳ một vật trần tục nào làm
trung gian, một loại tựa như một tình yêu tối giản ấy mà? Tầm bậy quá! Mình
mà nói những điều này ra chắc người ta sẽ nghĩ mình bị thâm thần mất. Đời là
thế mà.h Một tay sĩ quan đứng dựa cột, ngắm thành công
của Bibi và nghĩ: gĐúng, cậu quan trọng và tôi quan trọng, mỗi người một kiểu.h
Vì thế y rập hai gót giầy vào nhau để chào Bibi theo cách y chào các tai to mặt
lớn. Rồi đến một nhà phê bình, đã luống tuổi,
khoác áo choàng đen bóng, quần xắn móng lợn dính bùn. Ông ta ngồi ở hàng ghế
miễn phí và nghĩ: gTrông cái thằng ranh ăn mày Bibi kìa. Cá tính của nó thì vẫn
còn cần phải phát triển tiếp, xong nó đã là một điển hình trọn vẹn, một nghệ
sĩ tiêu biểu nhất. Nó có tất cả các cảm hứng trào dâng của nghệ sĩ cũng như
những cái hoàn toàn vô giá trị, những ngón bịp bợm cùng với lửa thiêng, sự
khinh bỉ cực độ lẫn niềm say mê thầm kín. Tất nhiên, ta không thể viết tất cả
những nhận xét này ra, không khéo lại thành khen nó quá mức. Tất nhiên, nếu
ta không nhìn rõ chân tơ kẽ tóc mọi thứ như thế này thì ta cũng đã thành nghệ
sĩ rồi.h Rồi thần đồng ngừng chơi và bão tố nổi lên
trong khán phòng. Cậu phải liên tục đi từ sau bức bình phong ra chào. Người
phục vụ mặc áo cúc sáng lấp lánh mang thêm các vòng hoa lên sân khấu: bốn
vòng nguyệt quế, một cây đàn lyre kết bằng hoa tím, một bó hoa hồng. Anh ta
không đủ tay để trao tất cả các tặng phẩm đó, ông bầu phải lên sân khấu để trợ
giúp. Ông ta quàng một vòng nguyệt quế lên cổ Bibi, âu yếm xoa mái tóc đen của
cậu, và đột nhiên như thể mất tự chủ, ông ta cúi xuống tặng Bibi một cái hôn,
một cái hôn kêu, đúng giữa miệng. Thế là cơn bão biến thành trận cuồng phong.
Cái hôn chạy suốt khán phòng như một luồng điện, chui thẳng vào tủy sống khán
giả khiến họ rùng mình lạnh toát sống lưng. Họ bị tiếng ồn hỗn loạn thúc ép
xô đẩy. Những tiếng hú hét quện với tiếng vỗ tay như điên dại. Vài người bạn
khán giả nhỏ tuổi của Bibi ngồi dưới vẫy vẫy khăn tay. Nhưng nhà phê bình lại
nghĩ: gTất nhiên cái hôn này phải có – trò hề cũ rích. Đúng, Chúa ơi, giá mà
ta không biết tỏng mọi thứ như thế này.h Và buổi hoà nhạc đi đến hồi kết. Buổi diễn bắt
đầu lúc bảy rưỡi và kết thúc lúc tám rưỡi. Sàn diễn chất đầy các vòng hoa và
hai bình hoa được đặt trên giá nến của chiếc dương cầm. Bibi chơi bản nhạc cuối
cùng - bản Rhapsodie Hy Lạp của cậu, có phần cuối chuyển thành quốc ca Hy Lạp.
Nếu không có các khách khứa oai vệ ngồi quanh thì những người đồng hương của
Bibi trong đám khán giả đã sung sướng hát theo cậu rồi. Họ bù lại bằng những
tiếng ồn cực lớn, những tiếng la ó rùm beng, một biểu hiện tinh thần dân tộc
đầy nhiệt huyết. Và nhà phê bình luống tuổi lại nghĩ: gĐúng, cũng phải có cả
bài quốc ca này nữa. Tụi nó phải khai thác mọi nguồn cảm hứng - quảng cáo
không được phép bỏ qua bất cứ cách gì nhằm đạt mục đích cuối cùng. Có lẽ ta sẽ
phê phán cái này là phi nghệ thuật. Nhưng có thể ta sai, có thể đây mới là
cái nghệ thuật nhất trong tất cả. Nghệ sĩ là gì? Chẳng qua là một con rối.
Phê bình luôn ở tầm cao hơn. Nhưng ta không nói thế được.h Và ông ta bỏ ra về
trong cái quần dính bùn của mình. Sau khi đã ra chào tới chín hoặc mười lần gì
đó, thần đồng không đi ra từ sau bức bình phong nữa mà đi xuống chỗ mẹ cậu và
ông bầu ngồi dưới khán phòng. Khán giả đứng cả dậy hoan hô, chen nhau tới để
gặp Bibi. Nhiều người cũng muốn gặp bà công chúa. Hai đám đông dày đặc hình
thành, một đám vây quanh thần đồng, đám kia vây quanh bà công chúa, và khó mà
nói ai trong hai người được công chúng tôn sùng hơn. Nhưng cô thị nữ được lệnh
tới gặp Bibi. Cô ta vuốt nhẹ cái áo vét lụa của cậu cho tề chỉnh để ra chầu,
rồi dắt tay dẫn cậu đến chỗ bà công chúa ngồi, và long trọng ra hiệu cho cậu
hôn tay bà. gCon làm thế nào mà chơi được như vậy?h bà công chúa hỏi. gCó phải
mọi thứ hiện ra trong đầu mỗi khi con ngồi vào đàn?h gOui, madame,h[2]
Bibi trả lời và thầm nghĩ: gÔi, thật đúng là một con mẹ công chúa già ngu dốt!h
Rồi cậu quay lưng, bẽn lẽn và chẳng lễ nghi gì, đi về phía gia đình mình. Một đám đông tụ tập trong phòng gửi áo ở bên
ngoài. Khán giả đưa số và dang tay nhận lại cổ lông, khăn san, giầy ủng. Bà
giáo dạy dương cầm đứng đâu đó giữa đám người quen và lên tiếng phê phán. gNó
chơi không độc đáo lắm,h bà ta nói to rồi nhìn quanh. Một phụ nữ trẻ thanh lịch mặc áo dài dạ hội,
chân đi giầy lông, đứng trước một trong mấy cái gương lớn để hai em trai, hai
trung uý, khoác áo cho mình. Cô ta có một vẻ đẹp thanh thú, với đôi mắt xanh
ánh thép, và khuôn mặt sáng sủa, gia giáo. Quả là một phụ nữ quý phái. Sau
khi mặc áo xong xuôi, cô đứng đợi hai em mình. gĐừng chiếm gương lâu quá,
Adolf,h cô nói khẽ với một cậu em, đang ngắm không tài nào dứt ra được vẻ mặt
giản dị, trẻ trung và điển trai của chính mình. Còn trung úy Adolf thì nghĩ: gĐồ
thô bỉ!h Anh ta vẫn tiếp tục cài cúc áo khoác trước gương, như cũ. Sau đó họ
đi ra ngoài đường nơi ánh đèn toả những quầng sáng leo lét xuyên qua màn
sương trắng đục. Trung úy Adolf, hai tay đút túi, cổ áo khoác dựng đứng, khẽ
nhảy một điệu vũ da đen trên tuyết giá cho ấm người, Một cô gái tóc bù xù, hai tay vung vẩy, đi cạnh
một thanh niên có bộ mặt rầu rĩ, bước ra sau họ. gMột đứa trẻ!h Cô ta nghĩ gMột
đứa trẻ thật đáng yêu! Nhưng trong khán phòng cậu ta đã diễn tấu truyền cảm
kinh ngườich rồi cô ta cất giọng yếu ớt nói: gNghệ sĩ chúng ta, tất cả đều là
thần đồng.h gTrời, lạy thánh mớ bái!h lão già chưa bao giờ chơi được bài nào
khó hơn bài Augustin nghĩ. Bây giờ lão đã đội mũ che đi cái bướu trên đầu. gTất
cả cái đó có nghĩa gì? Cô ta nói cứ như thánh phán vậy.h Nhưng chàng thanh
niên rầu rĩ thì hiểu. Chàng chậm rãi gật đầu. Rồi họ im lặng và cô gái tóc bù
xù nhìn theo ba chị em nhà sĩ quan. Lẽ ra thì cô khinh bỉ họ, nhưng cô lại
nhìn theo họ cho đến khi họ rẽ khuất sau góc phố. dịch xong ngày19/9/2009 tại Tokyo, theo bản tiếng Anh: Thomas Mann - gThe
Infant Prodigyh (1903) Bản tiếng Việt © 2009 Nguyễn Đình Đăng |