Cuộc triển lăm dài nhất của tôi

 

“Cái cớ duy nhất để làm ra một thứ vô dụng là v́ ta ngưỡng mộ nó sâu sắc.
Toàn bộ nghệ thuật là vô dụng.

Oscar Wilde (1854 – 1900)

 

Đại văn hào Nga Lev Tolstoy từng viết rằng nghệ thuật là một trong những phương thức giao tiếp của con người với nhau [1]. Tôi cho rằng đó là một trong những phương thức giao tiếp có sức thuyết phục nhất.

 

Hồi c̣n là sinh viên ở Maxcơva, tôi thường kư họa chân dung những người xung quanh từ các bạn cùng học, các bà gác cổng kư túc xá đến các công nhân nhà máy, nơi tôi lao động kiếm thêm tiền trong kỳ nghỉ hè. Tất cả họ đều trở nên rất cởi mở với tôi chỉ sau 20 phút, khi nh́n thấy chân dung của ḿnh hiện ra trên giấy.

 

Tôi thích làm các cuộc triển lăm tranh cá nhân một phần cũng v́ thế. Đây là dịp chẳng những tôi “tŕnh làng” được các tác phẩm mới nhất của ḿnh, mà c̣n được hân hạnh tiếp xúc với những con người rất lư thú. Với hơn 30 năm vẽ tranh, tôi cũng đă có nhiều triển lăm cá nhân. Dài nhất trong số đó, tới 2 tháng, là triển lăm “Niềm vui sướng của trí tưởng tượng” [2] - nội dung chính của bài viết này.

 

 

* * *

 

Nước Nhật là một đất nước dân chủ thực sự. Quyền tự do biểu hiện được tôn trọng đặc biệt. Hiến pháp của Nhật nghiêm cấm kiểm duyệt [3]. Nhà nước không can thiệp vào văn học nghệ thuật. V́ thế không hề có bất cứ một cơ quan văn hóa tư tưởng nào được lập ra để “hành” các văn nghệ sĩ. Các hội văn học nghệ thuật của Nhật đều là tư nhân, nhiều như nấm sau mưa rào, và không hề hoạt động dưới sự lănh đạo của bất cứ đảng phái chính trị hoặc cơ quan nhà nước nào. Triển lăm tranh, tượng, video-art, sắp đặt, tŕnh diễn, biểu diễn nghệ thuật, hoà nhạc, xuất bản sách báo v.v. không hề phải xin phép ai hết. Chỉ sự thỏa thuận giữa văn nghệ sĩ với chủ gallery, nhà hát, nhà xuất bản là đủ. 

 

Tokyo họa sỹ thường triển lăm tranh ở bảo tàng mỹ thuật, art galleries, và các nhà hàng (restaurant, quán café).

 

Nghề chơi cũng lắm công phu. Một số bảo tàng mỹ thuật lớn như Bảo tàng mỹ thuật trung ương Tokyo (Tokyo Metropolitan Art Museum) thường cho các hội mỹ thuật thuê pḥng để làm triển lăm tập thể hàng năm, tiếng Nhật gọi là koboten. Những triển lăm này thường khá lớn, chiếm 2 – 3 tầng, mỗi tầng có diện tích sàn tới vài trăm m2. Triển lăm thường kéo dài hai tuần lễ, với hàng trăm bức tranh khổ lớn (khoảng từ 1.6m x 1m trở lên). Người tham dự phải nộp 150 – 200 USD lệ phí nếu không phải là hội viên. Số tiền này không được hoàn lại kể cả khi tranh không được chọn. Tranh của hội viên không cần phải qua tuyển chọn. Tranh của các tác giả chưa phải là hội viên phải được sự tuyển chọn của các hội viên. Không hề có hội đồng nghệ thuật cho những cuộc tuyển chọn như vậy, mà tất cả hội viên, khoảng 100 – 200 người, đều được quyền tham gia chọn tranh bằng cách giơ tay biểu quyết công khai. Hội viên không phải nộp lệ phí triển lăm v́ đă phải đóng hội phí hàng năm gấp ba lần lệ phí. Không có hy vọng làm triển lăm cá nhân tại bảo tàng mỹ thuật trừ phi bạn là Picasso, Dalí, Jasper Jones, Jackson Pollock, hay … may mắn có tranh bán vài trăm ngàn USD tại nhà đấu giá Sotheby hoặc Christie.

 

Galleries mỹ thuật ở Tokyo có hai loại: gallery cho thuê, gọi là kashi garo, và gallery theo kế hoạch, gọi là kikaku garo. Kashi garo là loại ai cũng có thể dùng được để triển lăm tranh của ḿnh miễn là đủ tiền để thuê, thường là rất đắt, khoảng 300 – 600 USD/ngày cho khoảng 10 – 30 m2 tại khu Ginza tùy theo vị trí. Tác giả phải tự lo việc quảng cáo, tiếp thị, bán tranh, nhưng không phải nộp “phần trăm” cho chủ gallery. Kikaku garo chỉ tổ chức triển lăm cho các họa sĩ được mời. Người được mời không phải trả tiền thuê pḥng, hoặc trả ít hơn nhiều so với kashi garo. Gallery lo mọi khoản quảng cáo, tiếp thị, bán tranh, và hưởng tới 70% tiền tranh bán được. Có nghĩa là bất cứ loại gallery nào cũng đều ra sức bóc lột họa sĩ. Chính v́ vậy sau 2 – 3 lần triển lăm tại cả kashi và kikaku garo, tôi đă mất hứng thú đối với galleries tại Tokyo.

 

Lựa chọn c̣n lại là triển lăm cá nhân tại các nhà hàng.

 

 

* * *

 

Tôi làm triển lăm cá nhân lần đầu tiên tại Nhật vào tháng 10 năm 2001. Triển lăm được tổ chức tại pḥng triển lăm của trung tâm văn hóa thành phố Wako - tỉnh Saitama [4]. Buổi khai mạc có khoảng 100 khách tới dự. Một người đàn ông đứng tuổi, ăn vận rất nghệ sĩ, tới gặp tôi và tự giới thiệu. Ông là một nhiếp ảnh gia gốc Hoa, quốc tịch Canada. Tuy nhiều năm nay sống ở Tokyo, ông không nói tiếng Nhật, có lẽ ỉ vào tiếng Anh rất chuẩn của ḿnh. Tôi đă làm quen với Benjamin Lee như vậy. Sau đó, tôi được biết ông là một nghệ sĩ khá nổi danh với các bức ảnh chân dung kích thước lớn chụp các nhân vật nổi tiếng, như bà đào Holywood Elizabeth Taylor, nữ minh tinh Trung Hoa Củng Lợi, kiến trúc sư Nhật Bản lừng danh Tadao Ando, nhà vật lư từng đoạt giải Nobel Leo Ezaki, v.v.

 

Cuộc sống ở Tokyo rất bận. Phải biết thu xếp thời gian khá sít sao mới xem được tất cả các triển lăm của các bạn bè nghệ sĩ của ḿnh, v́ chỉ đi từ nhà đến pḥng tranh cũng đă mất từ 45 phút đến cả tiếng đồng hồ. Ngoài hứng thú nghệ thuật, đó cũng c̣n là t́nh bằng hữu. Các triển lăm của Lee thường lớn, hoành tráng, và được tài trợ lúc th́ bởi Kodak, lúc th́ bởi Japan Airlines, hoặc bởi đích thân ông trùm ikebana của Nhật (nay đă tạ thế). Mùa xuân năm 2004 tôi nhận được giấy mời đến triển lăm của Benjamin Lee tổ chức tại một nơi khá đặc biệt: nhà hàng Italia mang tên BiCE Tokyo. Nhà hàng này có nhiều cái nhất. Đó là một trong những nhà hàng sang trọng nhất và cũng … đắt nhất Tokyo (ăn tối ở đây ít nhất là 100 USD một người chưa kể đồ uống), nằm trên tầng cao gần … nhất, tầng thứ 47, của toà nhà 48 tầng ở Caretta Shiodome - trụ sở của Dentsu, một trong những hăng quảng cáo lớn nhất Nhật Bản. Ṭa nhà này nằm trong quần thể cao ốc chọc trời Shiodome, một trong những khu cao ốc mới nhất của Tokyo. Khu này lại nằm trong Ginza – một trong những trung tâm “xịn”   tiếng là đắt đỏ nhất … thế giới.

 

 

Ṭa nhà Dentsu, Tokyo

(ảnh của tác giả)

 

Sau khi bước vào bên trong ṭa nhà Dentsu, khách đi thang máy thẳng lên sky restaurants (nhà hàng trên trời) tại tầng 46 và 47. Thang chạy theo một đường ống bọc kính, từ trong có thể nh́n rơ toàn bộ quang cảnh thành phố, các toà nhà đang tụt xuống phía dưới theo tốc độ đi lên vùn vụt của thang máy. Lên đến tầng thứ 47 khách có cảm giác như đang ở trên đỉnh của thế giới. Tôi nhớ đến cái lần trèo lên nóc ṭa  tháp đôi ở New York và nh́n thấy ḍng chữ “The top of the world” (Đỉnh của thế giới). Tiếc thay cái đỉnh đó bây giờ chỉ c̣n trên tấm h́nh chụp chuyến đi New York của tôi.

 

BiCE (phát âm: bi-che) là cách gọi thân mật tên bà Beatrice Ruggeri - người đă sáng lập ra BiCE restaurant vào năm 1926. Đầu tiên đó chỉ là một quán ăn nhỏ ở Milano nơi bà Beatrice trổ tài nấu nướng của ḿnh thết đăi bạn bè. Bà và các anh chị em của ḿnh tự tay bưng bê phục vụ thực khách. Ngày nay BiCE là một tập đoàn với các nhà hàng sang trọng tại 22 thành phố lớn ở Bắc Mỹ, Mỹ La tinh, châu Âu, châu Á và Trung Đông. BiCE Tokyo được mở 14 năm trước nhưng ở một địa điểm khác. Cách đây 4 năm, ngay sau khi khu Shiodome được khánh thành, nhà hàng chuyển đến Caretta Shiodome.  Nhà hàng có 130 chỗ ngồi và một đội ngũ khoảng 40 nhân viên phục vụ, toàn các nam thanh nữ tú, nói được ít nhất 2 thứ tiếng Nhật và Anh.  Giám đốc điều hành của BiCE Tokyo, Angelo Visigalli (ngoài 30 tuổi) và 4 đầu bếp, cũng trạc tuổi anh ta, là người Milano chính hiệu. V́ thế bầu không khí ở BiCE Tokyo rất đặc biệt: vừa tôn ti trật tự kiểu Nhật lại vừa vui vẻ tài tử kiểu Ư, nhưng tựu trung đều rất lịch sự và cao cấp. Dưới đây chỉ là một số tiểu tiết:

-        Các khăn trải bản đều được hồ, là ủi phẳng phiu và thay mới mỗi khi khách đến;

-        Các món đồ ăn được tŕnh bày rất đẹp đựng trong những chiếc đĩa rộng, món kế tiếp được người phục vụ đem đến đúng vào lúc khách đă dùng xong món trước đó;

-        Những người phục vụ đứng từ xa quan sát để nếu khách cần ǵ là tiến tới phục vụ ngay. Tất cả, từ giám đốc điều hành đến đầu bếp và các nhân viên phục vụ, đều vui vẻ trả lời bất cứ câu hỏi ǵ của thực khách. Không thấy họ nhăn nhó hoặc tỏ thái độ ngao ngán trước mặt khách bao giờ, cho dù đó là buổi đông khách hoặc vắng khách.

-        Khi một nhóm nhiều khách đi ăn cùng nhau, nhưng thanh toán tiền riêng, mỗi  người nhận được một hóa đơn đúng chỗ ngồi của ḿnh mà không hề bị nhầm lẫn hóa đơn người này sang chỗ người kia.

Ngoài chất lượng phục vụ cao cấp, đồ ăn xứ Milan thứ thiệt, thực phẩm, rượu vang được nhập từ Italia, BiCE Tokyo c̣n nổi tiếng và đắt khách v́ vị trí rất đặc biệt của nhà hàng này: cao 200 m cách mặt đất. Từ chỗ ngồi ăn trong nhà hàng, thực khách có thể nh́n qua cửa kính xuống toàn bộ quang cảnh phần quay ra vịnh của thành phố Tokyo. Những đêm hè tháng Bảy khi Tokyo mở hội bắn pháo hoa, đây là chỗ lư tưởng để vừa ăn vừa ngắm. Lúc đó giá ăn tối ở BiCE Tokyo tăng gấp ba lần. Đă thế c̣n phải đặt trước mới có chỗ.    

 

Italia nổi tiếng hoàn cầu không chỉ v́ có đồ ăn ngon, phong cảnh đẹp, mà có lẽ trước hết đó là một đất nước của nghệ thuật. Người Italia từ khi lọt ḷng, được bế đến nhà thờ làm lễ rửa tội, đă được bao bọc bởi nghệ thuật v́ mỗi nhà thờ ở Italia thực sự là một bảo tàng mỹ thuật với nhiều bích họa cổ trên tường, đồng thời c̣n là một pḥng ḥa nhạc với tiếng nhạc du duơng âm u của đại phong cầm và lời hát mê hồn từ dàn đồng ca. Có lẽ cũng v́ vậy mà cách đây 2 năm, Angelo Visigalli đă đi đến quyết định biến các bức tường cao 4 m và không gian tràn trề ánh sáng của nhà hàng BiCE Tokyo thành một nơi trưng bày tác phẩm hội họa, điêu khắc và nhiếp ảnh của các nghệ sĩ hiện nay. Phần tường dùng để treo tranh tại nhà hàng có chiều dài tổng cộng tới hơn 60 m. BiCE Tokyo vốn đă hấp dẫn nay lại càng hấp dẫn hơn.

 

Khi Benjamin Lee giới thiệu tôi với Angelo tại BiCE Tokyo, tôi hỏi dựa vào tiêu chuẩn nào anh lựa chọn nghệ sĩ để mời trưng bày tại BiCE.

-        Tiêu chuẩn duy nhất: đó là những tác phẩm mà tôi thích! – Anh ta trả lời.

Các chi tiết tiếp theo lại c̣n thú vị hơn. Một khi Angelo Visigalli đồng ư mời một nghệ sĩ triển lăm tại BiCE, nhà hàng không thu bất cứ một khoản tiền nào từ nghệ sĩ, và cũng không lấy bất cứ phần trăm nào từ tiền bán tác phẩm. Hơn nữa nhà hàng c̣n

-        chi phí in ấn toàn bộ thiếp mời, và poster quảng cáo triển lăm;

-        chi phí và tổ chức tiệc khai mạc;

-        bao ăn trưa hoặc ăn tối cho 15 khách mời của tác giả. Ngoài 15 khách này, các khách của tác giả đến xem triển lăm được ăn trưa với giá ưu tiên, tức là rẻ hơn giá chính thức;

-        phục vụ đồ uống (các loại cà-phê, rượu, cocktail, v.v.) miễn phí cho khách đến xem triển lăm;

Lẽ dĩ nhiên, tác giả (và đôi khi cả vợ con) luôn là khách của nhà hàng, tức là được ăn uống miễn phí trong thời gian triển lăm.

 

Khi tôi đưa cho Angelo xem cuốn vựng tập “Niềm vui sướng của trí tưởng tượng” in 28 bức tranh sơn dầu của tôi, anh ta vừa lật mấy trang liếc qua đă lập tức thốt lên:

-        Đây chính là cái tôi thích!

Mọi việc tiếp theo diễn ra trôi chảy. Chúng tôi lên kế hoạch triển lăm cá nhân tranh của tôi tại BiCE  bắt đầu vào tháng 10 năm 2005. Theo thông lệ của BiCE Tokyo, triển lăm kéo dài 2 tháng.  Treo tranh ǵ và gọi tên tranh như thế nào hoàn toàn do tôi quyết định. Angelo chỉ lưu ư tôi treo những bức “nhạy cảm” … xa xa bàn ăn để đề pḥng “nhỡ quư bà nào đi cùng cô con gái nhỏ - đến để ăn chứ không phải để xem tranh - phản ứng”. Với thái độ tôn trọng nghệ sĩ của một người hiểu biết, anh ta đưa ra đề xuất này khá rụt rè, sau khi đă rào trước đón sau. C̣n tôi, người vốn đă từng bị buộc phải xóa chi tiết trong một bức họa của ḿnh, và đổi tên gọi một bức họa khác để được treo (ở Hà Nội), dĩ nhiên dễ dàng chấp nhận yêu cầu của Angelo.

 

* * *

 

Hai hôm trước ngày khai mạc tôi thuê hăng ToBi (Tokyo Bijutsu = Mỹ thuật Tokyo) vận chuyển tranh tới BiCE Tokyo trước khi nhà hàng mở cửa 2 tiếng. Angelo và 3 cộng sự đích thân bắc thang treo tranh theo sơ đồ tôi đă vẽ sẵn. Anh ta tỏ ra có “bon goût” (khiếu thẩm mỹ) sau khi khuyên tôi hoán vị hai bức do điều kiện không gian bao quanh. Sau chưa đầy 2 tiếng đồng hồ vừa làm việc vừa hát những bài ca Italia, họ đă treo xong toàn bộ 22 bức sơn dầu trong đó có những bức kích thước một chiều từ 1.6m đến gần 2 m.

 

Triển lăm “Niềm vui của trí tuởng tượng” khai mạc chiều ngày 8 tháng 10 năm 2005. Đây không phải là tiệc khai mạc đông nhất trong các triển lăm cá nhân của tôi, nhưng có lẽ đẹp và sang trọng nhất. Khách dự tiệc khai mạc được an tọa tại các bàn 4 chỗ ngồi kê sát cửa kính nh́n xuống vịnh. Hôm đó thời tiết cũng tốt. Lúc bắt đầu trời quang đăng, nên từ trên cao có thể thấy rơ toàn phong cảnh vịnh Tokyo. Khi kết thúc là lúc mặt trời đă lặn, thành phố Tokyo lung linh ánh đèn hiện ra bên duới. Tiệc được bày theo kiểu canapé gồm một số loại bánh mặn, bánh ngọt do nhà hàng tự chế, rượu vang và sâm-banh.

 

Bạn bè của tôi có một số họa sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, đồng nghiệp cùng làm trong viện nghiên cứu vật lư và hóa học Nhật Bản (RIKEN). Các nguyên mẫu trong tranh của tôi là vợ, con trai tôi, và cô bạn gái của nó, tất nhiên cũng tới dự. Con trai tôi c̣n làm luôn nhiệm vụ phiên dịch lời phát biểu của tôi từ tiếng Anh sang tiếng Nhật v́ trong số khách khứa chỉ có một số là hiểu được cả 2 thứ tiếng nói trên. Ngoài các bạn của ḿnh, tôi được làm quen với một số khách mới. Đó là cô người mẫu cao 1m82 người Brazil bạn của Benjamin, một nhà buôn tranh người Do Thái có biệt hiệu Johnnie Walker [5],  hai họa sĩ trẻ người Pháp vừa chân ướt chân ráo tới Tokyo, vợ chồng tham tán khoa học kỹ thuật của Đại sứ quán Italia, mấy phụ nữ kiều diễm người Nhật và Trung quốc mà thiếu họ các cuộc hội hè như thế này chắc hẳn kém phần hấp dẫn, v.v. Một số khách Nhật của tôi, do bận không tới được, đă chu đáo gửi hoa đến tiệc khai mạc. Cũng như các tặng phẩm khác, ở Nhật người ta đặt hoa mừng ở các cửa hiệu hoa. Các bó hoa, hoặc lẵng hoa được làm theo kiểu dáng riêng, có tên gọi ư nghĩa riêng, như hoa đám cưới, hoa đám ma, hoa mừng sinh nhật, hoa khai mạc triển lăm, v.v.   Sau đó, nếu khách hàng v́ lư do ǵ đó mà không đến dự tiệc được, cửa hiệu hoa sẽ đưa hoa đến đúng địa chỉ, đúng giờ theo yêu cầu của khách hàng. Có lần một người bạn Nhật mời gia đ́nh tôi đến nhà ông chơi. Ông ta đặt bia từ một nơi sản xuất nổi tiếng ở thành phố khác, xa Tokyo, và yêu cầu họ gửi đến vào giờ ăn trưa. Lúc chúng tôi bắt đầu ăn, có tiếng chuông cửa. Một người đưa hàng mang vào một cái thùng nhỏ chứa các hộp bia ướp lạnh, khi mở thùng ra hơi lạnh vẫn c̣n bốc lên.

 

Trong lời phát biểu tại tiệc khai mạc tôi nói rằng triển lăm này là kết quả của một sự hợp tác quốc tế: “Quư vị đang thưởng thức tranh do một người Việt Nam vẽ, treo trên tường của một nhà hàng sang trọng nhất của Italia, ngự trên đỉnh của Tokyo”, rằng tôi có may mắn trong đời được gặp “nhiều quư nhân phù trợ”, như Benjamin Lee đă cho tôi biết về BiCE Tokyo, và Angelo Visigalli đă tài trợ và tổ chức triển lăm. Sau đó ông Seki - một người bạn già lâu năm của tôi ở RIKEN – lên tiếng. Ông nói về cảm xúc của ông khi xem bức tranh “Đại dương mùa đông” [6] của tôi. Sự am hiểu nghệ thuật của ông cùng với những ǵ ông đă trải nghiệm sau chuyến đi Việt Nam cách đây vài năm, và t́nh cảm của ông đối với tôi đă khiến diễn từ của ông đặc biệt xúc động. Trong lời kết, ông nói: “Ông Đăng, tôi hy vọng ông sẽ tiếp tục đào nền móng mới theo cách chỉ riêng ông mới làm được, như ông đă từng làm với tư cách một nhà vật lư hạt nhân và một nghệ sĩ trong cái thế giới của riêng ông - cái thế giới khác cả Salvador Dalí [7] hoặc Vermeer [8] - thế giới của Nguyễn Đ́nh Đăng.

 

 

* * *

 

Trong suốt thời gian 2 tháng triển lăm, nhiều khách đă đến xem tranh và thưởng thức đồ ăn của BiCE Tokyo. Một người bạn của tôi tới đó tới 3 lần, mỗi lần lại dẫn theo vài người khách mới. Tôi cũng được hân hạnh tiếp chuyện nhiều khách khứa. Gây ấn tượng nhất có lẽ là 7 cuộc gặp mặt tôi sẽ tóm tắt duới đây với 1) một nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, 2) một nhà sưu tầm tranh, 3) một ông bộ trưởng, 4) một họa sĩ Việt kiều, 5) một chủ gallery, 6) một giáo sư vật lư, và 7) một nhạc trưởng.

 

1)    Nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật

Tôi hay đọc Thời báo Nhật Bản (The Japan Times), một trong những nhật báo tiếng Anh phổ biến nhất xứ Phù Tang. Thấy các bài viết của anh về hội họa cận đại [9] của Nhật tỏ ra khá uyên bác và sâu sắc, lại hợp với những h́nh dung của tôi về mỹ thuật nước này, tôi gửi thiếp mời anh tới dự tiệc khai mạc triển lăm. Anh không tới được. Anh sống ở Kyoto. Nhưng anh đă viết một bài giới thiệu dựa trên các phiên bản tranh và thông tin trên trang nhà của tôi [10]. Một ngày trước tiệc khai mạc, bài báo xuất hiện trên Thời báo Nhật Bản [11].

 

Thế rồi tôi cũng gặp được anh trong dịp anh kết hợp đi công cán để viết bài theo “đơn đặt hàng” của Thời báo Nhật Bản cho hai triển lăm tại YokohamaTokyo. Cuộc triển lăm ở Tokyo mà tờ báo đề nghị anh tổng quan chính là “Triển lăm 50 năm hội họa cận đại Việt Nam: 1925 – 1975” diễn ra tại Tokyo Station Gallery. Anh tới xem triển lăm của tôi tại BiCE Tokyo trước, sau đó chúng tôi cùng nhau đi xem triển lăm Việt Nam.

 

Anh là người Úc, lấy vợ Nhật. Anh c̣n trẻ, đẹp trai, tỏ ra khiêm tốn lịch sự khi nói chuyện. Anh có cách nh́n khá nghiêm khắc lên hội họa cận hiện đại của Nhật Bản. Anh cho rằng phần lớn họa sĩ Nhật chỉ theo đuôi phương Tây về h́nh thức, trong khi cái bản chất, lư do tại sao lại vẽ như thế, chưa thấm vào họ. Tôi hỏi anh có “được định hướng” bởi ṭa soạn hay tổ chức nào khác khi viết bài không. Anh trả lời là không hề. Cũng có lần anh đă làm những người tổ chức một triển lăm phật ư v́ những nhận xét chuyên nghiệp nhưng thẳng thừng trong bài viết của anh về triển lăm đó.

 

Xem triển lăm Việt Nam tại Tokyo Station gallery, anh chăm chú ghi chép vào sổ tay, lắng nghe tôi kể về Victor Tardieu, về Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, v.v. Anh c̣n gặp curator của triển lăm và nhận được 2 quyển vựng tập dày với đầy đủ thông tin về từng bức tranh và tiểu sử tác giả. Anh tặng tôi một quyển.

 

Khoảng ba tuần sau, bài viết “The art of war” [12] (Nghệ thuật của chiến tranh) của anh được đăng trên Thời báo Nhật Bản ngày 24/11/2005. Bài viết tóm tắt lịch sử của hội họa cận đại Việt Nam kể từ khi Victor Tardieu mở trường mỹ thuật Đông Dương đến khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Trước phần kết của bài viết, anh nhận định: Một khi nghệ thuật cúi ḿnh trước chính trị, như một đặc tính, nghệ sĩ bị cắt khỏi thế giới hội họa quốc tế, trở thành nạn nhân của sự thiếu thuần khiết của ḿnh, của sự tự vấn và các chủ đề khiên cưỡng. Như vậy sự bất đồng cơ bản giữa các nguyên tắc của chủ nghĩa Hiện đại và Hiện thực XHCN tiếc thay đă tạo nên cái cốt lơi của những năm h́nh thành nền hội họa Việt Nam.”  Thấy đây là bài viết đầu tiên, và có lẽ cũng là duy nhất, của một nhà chuyên môn độc lập người ngoại quốc về triển lăm của Việt Nam tại Tokyo, tôi đề nghị anh cho phép tôi dịch sang tiếng Việt để độc giả Việt Nam thấy “bè bạn nh́n ta như thế nào”. Anh vui vẻ đồng ư ngay. Đầu tiên tôi gửi bản dịch kèm phỏng vấn anh về một chuyên san điện tử trong nước, nhưng bài bị từ chối. Sau đó ít lâu một tờ báo mạng nổi tiếng ở hải ngoại đă đăng nguyên văn bản dịch và phỏng vấn của tôi [13].

 

2)    Nhà sưu tầm tranh

Ông là chủ nhân của hai gallery tranh tại Hà Nội. Trong 56 tác phẩm Việt Nam gửi trưng bày tại Tokyo Station Gallery có 6 bức được mượn từ sưu tập tư nhân của ông. Nhân dịp ông sang Tokyo dự khai mạc triển lăm nói trên tôi gọi điện đến khách sạn mời ông cùng hai bạn của ông đến xem tranh và dùng bữa trưa tại BiCE Tokyo.

 

Xem tranh của tôi, ông nói:

-        Ở Việt Nam tôi chưa thấy có ai vẽ như thế này!

Biết tôi dự định sẽ về Hà Nội triển lăm nhóm cùng với một số nghệ sĩ Nhật khác vào cuối năm 2006, ông đề nghị:

-        Mang bức “T ngây” về Hà Nội bày đi! Tôi sẽ mua.

 

 

Nguyễn Đ́nh Đăng

“Thơ ngây”

sơn dầu 162 x 97 cm, 2005

 

Tuy mới gặp nhau lần đầu tiên, chúng tôi tṛ chuyện khá cởi mở. Ông than phiền về các họa sỹ thương mại ở Việt Nam:

 

l        Thằng T c̣n nợ tiền tôi mà chưa chịu vẽ tranh. Thằng U xây nhà lầu không phải do bán được tranh đâu! Chúng nó cứ “nống” lên “tung hỏa mù” đấy thôi. Nó buôn đồ cổ cho mấy quư bà đấy. Tôi c̣n lạ ǵ chúng nó! Thằng V vẽ chỉ có 5 “mô-típ”, diễn đi diễn lại măi, bây giờ hết vở rồi.

 

l        Có lần tôi đặt tranh thằng X. Nó “ngâm tôm” cả tháng. Tôi giục giă măi, nó hẹn 11 giờ trưa đến nhà nó lấy. Bấm chuông, ô-sin ra đưa tranh, nói: “Chú ấy bắt đầu vẽ lúc 9 giờ sáng nay!” Sơn trát dày như thế này này. Lúc đem tranh về, thằng nhỏ cầm lái, c̣n ḿnh ngồi sau phải giữ khư khư để mặt tranh ngửa lên cho khỏi bị quệt dính.

 

l        Hồi tôi mới bắt đầu chơi tranh, tôi cũng ôm mộng nâng đỡ các nhân tài. Tôi trả tiền đặt nó vẽ, mua cả toan, bút vẽ, màu sơn cho nó, thậm chí cho nó mượn cả một pḥng trong nhà tôi để “sáng tác”. Ông tướng đến, nổi cảm hứng nghệ sĩ, trong ṿng chưa đầy một tiếng đồng hồ, bôi quệt trát tứ tung, rồi bỏ đấy ra về, để mặc bút vẽ, bảng pha màu và căn pḥng dính đầy sơn cho tôi cọ rửa, lau dọn. Sau vài “vố” như vậy tôi chào thua luôn.

 

Câu chuyện chuyển sang các vấn đề đời sống hàng ngày ở Việt Nam. Tôi thắc mắc một cách ngây thơ rằng ở Hà Nội đường đă chật mà sao xe hơi “xịn” nhập về, chưa kịp xuất kho, đă được các đại gia đăng kư mua hết. Tôi lại so sánh với đời sống bên Nhật: có xe hơi là phải trả cả đống tiền thuê chỗ đậu, bảo hiểm, mà hiệu suất sử dụng ít. Phần lớn đàn ông không dùng xe hơi đi làm, mà đi tàu điện, v́ sợ kẹt xe, muộn giờ làm. Ông cười và nói:

-        Ở Việt Nam ông cần ô-tô quá đi chứ! Ông muốn tiếp cận các “tai to mặt lớn” để làm ăn chứ ǵ? Ông không thể đi Dream đến gặp các vị. Ông phải lên “con” Mercedes. Ông đă quá niên trạc ngoại … ngũ tuần, nhưng lại muốn bắt bồ với em 8X chứ ǵ? Ông không thể đến đón em bằng “con” a-c̣ng, mà phải bằng một “con” BMW chứ!

Chân lư quả thực bao giờ cũng rất đơn giản.

Lúc chia tay, ông nhắc lại:

-        Mang bức “T ngây” về nhé! Tôi sẽ mua … theo giá ở Việt Nam.

 

3) Ông bộ trưởng

 Khi tôi cùng nhà sưu tầm tranh nói trên và các bạn của ông bước vào BiCE Tokyo, Angelo đă chạy ra, hào hứng thông báo:

-        Đại sứ Việt Nam và bầu đoàn đang ngồi ăn trong kia. Tôi đă giới thiệu tác phẩm của ôngmang sổ cảm tưởng của triển lăm tới tận bàn của họ để họ ghi. Ông vui ḷng tới chụp h́nh với họ chứ?

Liếc thấy vẻ mặt dửng dưng của nhà sưu tầm, Angelo hiểu ḿnh đă lỡ lời, bèn nói:

-        Ông cứ giới thiệu tranh cho khách của ông. Tôi sẽ báo lại với họ.

Khi chúng tôi đến gần bức tranh “Đại dương mùa đông”, tôi thấy một đám thực khách cả Việt Nam và Nhật đang ăn uống tại đó, nhưng không có ai giống ông đại sứ Việt Nam mà tôi đă có hân hạnh được gặp trước đây. Nhà sưu tầm nhắc khéo:

-        Ta cứ kệ họ thôi!

Một lát sau, trong khi chúng tôi đang vừa ăn vừa nói chuyện, Angelo lại chạy ra nói:

-        Bây giờ ông có thể ra với họ chứ? Họ đang dàn hàng ngang chụp h́nh trước tranh ông đấy.

Tôi đành cáo lỗi các vị khách của tôi và theo Angelo tiến ra phía các quan khách nọ. Khi tôi đến gần, họ đang đng dậy lục tục ra về. Angelo nói ǵ đó với một người Việt Nam đi giữa, trông bảnh bao, com-lê, cà-vạt, đầu chải gôm bóng mượt, có vẻ là nhân vật trung tâm. Vị này lănh đạm bắt tay tôi trong khi đi qua trước mặt tôi. Tôi nói mấy câu tự giới thiệu tôi là họa sĩ của triển lăm này và nhận được cái nh́n mơ hồ từ mắt ông ta. Không một câu trả lời, không nói một lời tạm biệt, ông ta cùng đoàn tùy tùng lững thững đi ra cửa. Mấy người Nhật tháp tùng chạy lăng xăng xung quanh như các vệ tinh. Tôi đâm bực ḿnh v́ phải bỏ dở câu chuyện với mấy người khách để ra lắc mấy ngón tay của người đồng hương xa lạ. Như đoán được cảm giác của tôi, Angelo xin lỗi rối rít:

-        Xin lỗi ông! Tôi nhầm, ông ấy không phải là ngài Đại sứ Việt Nam. Nghe nói ông ấy là một bộ trưởng một bộ quan trọng nào đó từ Hà Nội vừa sang.

Tôi mở sổ ghi cảm tưởng ra xem, chỉ thấy vài ḍng tiếng Nhật của mấy người Nhật trong đoàn khách đó. Không một ḍng chữ tiếng Việt. V́ thế tôi chịu không biết danh tính ông ln” nọ. Sau này, sau khi t́nh cờ nh́n thấy ảnh ông trên một trang báo mạng trong nước tôi mới hân hạnh được biết ông ta là ai.

 

4) Họa sĩ Việt kiều

Tôi từng đọc báo chí trong nước nói về ông t khi tôi c̣n đang học phổ thông. Tôi cũng đă được chiêm ngưỡng vài tranh in đá của ông vẽ mấy con nga trên mt tông màu xanh dương treo ở bảo tàng mỹ thut Hà Nội. Nhân mt nhà phê b́nh Nht Bản đăng mt bài ngn về tranh của tôi trong tạp chí “Cửa sổ mỹ thuật” [14], tôi mới ṭ ṃ xem cả số tạp chí đó và t́nh cờ t́m thấy một bài giới thiệu triển lăm cá nhân của họa gia Việt kiều nổi danh này, sắp khai mạc tại một gallery ở khu Ginza của Tokyo. Ngày khai mạc sẽ có sự hiện diện của đích thân họa sĩ vừa đến từ nơi ông đang sống ở thủ đô một nước châu Âu. Sau ngày khai mạc một hôm, tôi tới gallery để gặp ông. Tôi định bụng sau khi xem tranh ông sẽ rước ông sang BiCE Tokyo xem triển lăm của tôi, chỉ cách nơi ông triển lăm chừng 15 phút đi tàu điện ngầm. Tuy là đă nhận lời mời của tôi qua điện thoại, khi gặp ông lại từ chối, lấy lư do là ông không thích đi tàu điện ngầm v́ tuổi cao. Tôi nói: “Vậy th́ cho phép cháu được mời bác đi taxi”. Ông vẫn từ chối với lư do là nhỡ trong lúc vắng mặt có khách tới gallery, dù ông chưa hẹn gặp ai. Tôi đành ngồi nói chuyện với ông tại gallery. Cũng may là tôi đă tặng ông chủ gallery này một cuốn vựng tập “Niềm sung sướng của trí tưởng tượng”. Tôi bèn mượn đưa ông xem để ông có khái niệm về tranh của tôi. Ông khen tôi “vẽ giỏi”. Tranh của ông lần này vẽ toàn mặt người, nom từa tựa mặt tượng Phật kiểu “mô-đéc”, mờ mờ trên nền màu xanh na ná như màu những tranh ông vẽ ngựa tôi nh́n thấy khi xưa, tuy là bây giờ ông “chơi” sơn dầu chứ không phải in đá như trước. Ông khoát tay chỉ số tranh trên tường và nói:

-        Bác không rơ ở đây họ buôn bán thế nào. Họ mua hết số tranh này của bác rồi đấy chứ!

Sau này, t́nh cờ tôi được ông chủ gallery cho biết gallery có mua vài bức. Số c̣n lại họ mượn của họa sỹ. Bức nào bán được, gallery hưởng “phần trăm”. Những bức không bán được, sau triển lăm họ sẽ trả lại họa sĩ. Đó là cách làm việc thông thường của gallery này.

 

Ông nói về dự án mỹ thuật môi trường của ông tại Việt Nam. Ông nói ông chán vẽ theo đuôi người Tây rồi, rằng ḿnh phải là ḿnh, không giống ai hết, rằng ở Việt Nam rất dễ tạo ra nghệ thuật ngay từ thiên nhiên, rằng cái quan trọng là ḿnh phải chỉ cho người ta nh́n thấy bức tranh trong thiên nhiên. Ông c̣n nói về Thánh Gióng, về Âu Cơ đẻ trăm trứng, v.v. Tôi ngồi hầu chuyện ông mà cứ như vịt nghe sấm.

 

5) Chủ gallery

Tuy tôi không có hân hạnh được nghênh tiếp họa gia Việt kiều tại triển lăm của ḿnh, nhưng đúng như “Tái ông mất ngựa”, tôi được nghênh tiếp ông chủ gallery này tại BiCE Tokyo. Ông ta nói rằng ông cảm thấy trong tranh của tôi có sự kỳ bí, mà đó chính là cái đẹp sâu xa nhất trong mỹ thuật. Ông nói tranh của tôi chứa những yếu tố kết hợp giữa hai nền văn hóa Đông và Tây, rằng trong đó ẩn giấu một chiều kích mới: chiều của thời gian, của quá khứ. Tôi đă nghe những nhận xét như vậy nhiều lần, nhưng nghe lại vẫn thấy sao mà sướng cái lỗ nhĩ của tôi quá! Ông lại nói ông sẽ suy nghĩ để tổ chức triển lăm cá nhân tranh của tôi tại gallery của ông khi có dịp thuận tiện. Ông khoe rằng gallery của ông không như mấy gallery-nhà kho ở New York, rằng ông vốn mê tranh của họa gia Việt kiều nọ từ 15 năm nay, bây giờ mới có dịp triển lăm cá nhân cho họa gia tại Tokyo. Tôi thầm kết luận rằng, cứ cho là tôi có lợi thế sống cùng thành phố của gallery này đi, bét ra tôi cũng phải đợi 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa mới đến lượt triển lăm tranh của ḿnh tại gallery của ông.

 

6) Giáo sư vật lư

Tôi từng là cộng sự của ông trong năm đầu tiên khi tôi mới đến Nhật. Bố ông là một nhà vật lư Nhật Bản nổi tiếng, từng suưt được giải Nobel. Mẹ ông xuất thân trong một gia đ́nh kinh doanh ngân hàng chính gốc Tokyo. V́ thế gia đ́nh ông khá giàu. Và có thể cũng chính v́ thế ông bị không ít người đố kỵ ghen ghét. Ông để ngoài tai mọi lời thị phi. Ông hiện là giáo sư tại một trường đại học cách Tokyo khoảng một giờ rưỡi đi tàu siêu tốc. Tuy nhiên ông đă lái xe hơi chở vợ ông cùng đến xem triển lăm của tôi. Ông thích lái xe hơi. Ngồi bên bàn ăn tại BiCE Tokyo ông nói to:

-        Tôi chán ghét người Nhật. Tất cả trèo lên một chuyến tàu rồi cùng nhau đi về một hướng!

-        Nhưng lái xe trên xa lộ cũng là đi về cùng một hướng đấy thôi! – Tôi vặn.

-        Đúng! Nhưng khác tốc độ! – Ông cười to.

Tôi liếc nh́n xung quanh. Các thực khách Nhật ở các bàn bên vẫn ăn uống b́nh thường, không hề tỏ bất cứ thái độ ǵ trước câu nói có vẻ “khiêu khích” của ông. Tôi thử h́nh dung xem chuyện ǵ có thể xảy ra nếu một giáo sư Việt Nam nói: “Tôi chán ghét người Việt Nam” tại một nhà hàng ở Hà Nội. Nếu không bị sinh sự ngay tại bàn ăn, th́ chắc sẽ được lănh đủ mắm tôm, trứng thối, hay nước rửa ḥa a-xit của những người Việt “yêu nước” khi về đến cửa nhà ḿnh cũng nên.

 

Được biết ông hiện là chủ tịch một quỹ tư nhân do chính gia đ́nh ông thành lập để ủng hộ các hoạt động sáng tạo của những người tàn tật, tôi đề nghị ông xem xét tài trợ cho hai họa sĩ Nhật Bản trong hội Mỹ thuật Chủ Thể mà tôi là một hội viên. Người thứ nhất cụt cả hai tay, ngậm bút vẽ để vẽ tranh. Người thứ hai không đi được, phải dùng xe lăn. Họ tham gia đều đặn triển lăm hàng năm của hội tại bảo tàng mỹ thuật trung ương Tokyo.

 

7) Nhạc trưởng

Tháng 10 năm 2004 dàn nhạc giao hưởng quốc gia của Việt Nam lần đầu tiên ra mắt công chúng Nhật Bản tại Tokyo và Osaka. Chỉ huy dàn nhạc là một nhạc trưởng người Nhật. Tôi có đăng một bài về cảm xúc của tôi sau khi nghe buổi tŕnh diễn của dàn nhạc tại Tokyo [15]. Sau đó qua một người bạn đồng thời là nghệ sĩ cello của dàn nhạc, tôi được làm quen với nhạc trưởng.

 

Ngày triển lăm của tôi khai mạc anh đi lưu diễn ở châu Âu. Một buổi tối, Benjamin Lee gọi điện cho tôi, như thường lệ, từ một nhà hàng ồn ào:

-        Tôi đang ngồi với mấy người bạn đây. Trong bọn họ có một người Nhật là chỉ huy dàn nhạc, rất hay đi Việt Nam. Ông có muốn nói chuyện với anh ta không? Tôi chuyển điện thoại nhé!

Tôi đă linh tính hiểu ngay vị nhạc trưởng đó chính là anh. Ở Nhật chắc không t́m ra nhạc trưởng thứ hai đi Việt Nam nhiều   say mê Việt Nam như anh. Tôi nghe tiếng anh cười phá lên trong điện thoại, rồi anh nói:

-        Quả đất thật là hẹp! Không ngờ anh cũng là bạn của Benjamin. Lần từ Hà Nội trở về vừa rồi có người gửi tôi mang cho anh mấy thứ đồ ăn, nhưng tôi lại phải đi châu Âu ngay, không kịp chuyển cho anh, nên đồ ăn hỏng hết. Tôi đành phải vứt đi rồi. Xin lỗi, xin lỗi nhé!

-        (…)

-        Có, tôi có nhận được thiếp mời triển lăm của anh. Triển lăm c̣n không? Tôi muốn đến xem.

-        (…)

-        O.K.! Vậy gặp nhau trưa thứ Bảy nhé, v́ chiều tối tôi c̣n có giờ tổng duyệt cho buổi ḥa nhạc ngày Chủ Nhật. Tiện thể, anh chị có thời gian đi xem buổi ḥa nhạc đó không? Anh chị sẽ là khách mời của tôi.

Đây là lần đầu tiên anh xem tranh của tôi. Anh nói:

-        Tôi có biết vài họa sĩ Việt Nam. Tôi cũng đă được nghe các bạn Việt Nam giới thiệu anh là một họa sĩ, nhưng tôi không ngờ anh lại vẽ như thế này!

Anh chụp nhiều tranh của tôi bằng điện thoại di động của anh. Anh nói:

-        Tôi sẽ “meo” cho X, Y, Z (tên các nhạc sĩ và nhạc công ở Hà Nội mà cả anh và tôi đều quen) ngay bây giờ để họ biết tôi đang xem triển lăm của anh.

Anh nói sau buổi ḥa nhạc ngày mai, sáng thứ Hai anh sẽ lại bay đi Hà Nội.

-        Có lẽ anh sống ở Hà Nội nhiều hơn ở Tokyo? – Tôi nhận xét.

-        Tất nhiên rồi! Cuộc đời tôi ở đó, chứ đâu phải ở đây. - Anh vừa nói vừa mơ màng nh́n xuống vịnh Tokyo – Tôi chán ngấy những thành phố như thế này! Những ṭa nhà này, chúng hiện đại thật đấy, nhưng chúng sẽ trở nên lố bịch sau 10 năm hay 20 năm. C̣n Việt Nam, ôi Việt Nam! Các nhạc sỹ Việt Nam có một nhạc cảm tinh tế …

-        Tôi tưởng các nhạc công Nhật giỏi kỹ thuật lắm mà! – tôi cắt ngang.

-        Đúng, và họ chỉ giỏi có cái đó. Kỹ thuật là thứ khó nhưng có thể học được. Nhạc cảm là thứ trời sinh, không học được. - Anh cười – Khi tôi mới bắt đầu làm việc với dàn nhạc Việt Nam, có nhiều thứ khá ngộ nghĩnh. Tôi có cảm giác ai cũng muốn ḿnh là người độc tấu hết! Nhưng bây giờ th́ ổn rồi! Nhạc cảm của họ tinh tế lắm. Tôi muốn các đồng nghiệp Nhật Bản của tôi nên lắng nghe họ! V́ thế lần này tôi rủ một nữ ca sĩ đi Việt Nam cùng với tôi. Anh sẽ nghe cô ấy hát ngày mai.

Tôi nghĩ thầm giá mà kết hợp được nhạc cảm của người Việt với kỹ thuật của người Nhật.

 

Anh có hai điều ước. Điều thứ nhất là vận động xây một pḥng ḥa nhạc cổ điển với công nghệ hiện đại tại Hà Nội. Ở Nhật hầu như mỗi thành phố đều có một pḥng ḥa nhạc hiện đại. Đến ngay thành phố tôi ở, cạnh Tokyo, bé tí với 70 ngàn dân mà cũng có một trung tâm văn hóa với hai pḥng ḥa nhạc, một to, một nhỏ. Pḥng to có 1286 chỗ ngồi dùng để nghe nhạc giao hưởng, xem opera, hay ballet. Các nghệ sĩ độc tấu piano và violon hay tŕnh diễn tại pḥng nhỏ 300 chỗ ngồi. Cả nước Việt Nam hơn 80 triệu dân với hai thành phố Hà Nội và Sài g̣n tổng cộng có lẽ tới 10 triệu người mà không có một pḥng ḥa nhạc cho ra pḥng ḥa nhạc. Nhà Hát Lớn Hà Nội – theo anh - chỉ hợp cho hát opera và độc tấu nhạc cụ, chứ không hợp cho ḥa nhạc giao hưởng. Dàn nhạc cũng cần một chỗ tập tử tế với pḥng thu âm ngay trong nhà hát. Anh nói anh đang vận động ở Nhật, có khả năng sẽ hỏi cả ODA [16] v.v. Anh nói anh hiểu xây một pḥng ḥa nhạc ở Việt Nam như anh và các nhạc công Việt Nam mong muốn quả thật rất khó v́ Việt Nam c̣n nghèo. Lời lẽ của anh “đủ đầy, nghe ra chừng phải quá”. Tôi nghĩ, Việt Nam hiện c̣n đang phải quan tâm phát triển đường xá, giao thông (qua các PMU chẳng hạn [17]), hàng không dân dụng (như đầu tư cho VietNam Airlines để họ thuê thêm Boeings, gửi thêm nhiều nhân tài đi học, dạy các chiêu đăi viên biết cười với hành khách, [18] v.v.), giáo dục (để nâng cao chất lượng thi cử, phong thêm nhiều giáo sư, đào tạo thêm nhiều tiến sĩ, v.v.), dầu khí (để xuất khẩu tăng GDP, và kết hợp với xây nhà máy điện nguyên tử để giải quyết vấn đề năng lượng, v.v.). Gớm, mới chỉ nghĩ có chừng ấy thôi mà đă thấy rối tinh cả lên rồi, nay lại c̣n thêm pḥng ḥa nhạc giao hưởng nữa th́ dân Việt sẽ phải đóng bao nhiêu tiền thuế đây? Điều ước thứ hai của anh là có một buổi tŕnh diễn của dàn nhạc giao hưởng Việt Nam do anh chỉ huy tại giáo đường của Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Chết! chết! Nhạy cảm, nhạy cảm! Anh nói nhiều năm về trước có một lần duy nhất dàn nhạc giao hưởng Việt Nam tŕnh diễn tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội, nhưng đó là do yêu cầu của Đại Sứ Quán Pháp. Nay, sau khi anh nêu nguyện vọng, lănh đạo dàn nhạc giao hưởng Việt Nam nói sẽ xin chỉ thị của các cơ quan cao hơn, nhưng sau cùng h́nh như nguyện vọng đó không … ấy chết, chưa được, chấp nhận.

 

 

* * *

 

Cuộc triển lăm hai tháng của tôi đă bế mạc từ cuối năm ngoái. Tôi cũng từng định viết về nó ngay sau khi nó kết thúc. Xét thấy ḿnh lại sắp “sản xuất” một bài viết về chính ḿnh, tôi lưỡng lự. Cách đây vài hôm vợ tôi nói: “Sao anh không viết đi! Có thể không ai thích, nhưng em thích. Em luôn là người đọc đầu tiên. Em thích tất cả những ǵ anh viết.” Đó là v́ sao tôi đă ngồi viết bài này. Cũng như vẽ tranh, tôi viết trước hết cho tôi, cho vợ tôi. Nếu một số quư vị thấy bài viết đáng xem, tôi xin đa tạ quư vị. Quư vị nào thấy nó nhàm chán, xin hăy quên nó đi.

 

Từ trên trời rơi xuống ba quả táo ngon ghê! Một quả dành cho người kể chuyện, một quả tặng người nhận đăng câu chuyện này, c̣n quả thứ ba xin để biếu bạn đọc.

 

Nguyễn Đ́nh Đăng

Tokyo 24/6/2006

(Đăng tại talawas 27.6.2006)

 

Chú giải và trích dẫn:

 

[1] Leo N. Tolstoy, What is Art? (McMillan, New York, 1960). Xem tóm tắt tiếng Việt trong Nguyễn Đ́nh Đăng “Nghệ thuật là ǵ ?”, phần Phụ lục, talawas ngày 12/1/2006: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=6249&rb=0202

 

[2] Solo show at BiCE Tokyo (9/10 – 9/12/2005): http://ribf.riken.go.jp/~dang/BiCE/BiCEshow.html

 

[3] Hiến pháp Nhật Bản, Điều 21: http://www.solon.org/Constitutions/Japan/English/english-Constitution.html

 

[4] Xem http://ribf.riken.go.jp/~dang/solo.html

 

[5] Tên một loại rượu whisky ra đời năm 1932.

 

[6] Xem ảnh chụp tại: http://ribf.riken.go.jp/~dang/paintings/winterocean.html

 

[7] Salvador Dalí (1904 – 1989) – danh họa Tây ban nha, được coi là đại diện sáng giá nhất của hội họa siêu thực.

 

[8] Jan Vermeer de Delft (1632 – 1675) – danh họa Hà Lan, cả cuộc đời chỉ vẽ 35 – 36 bức sơn dầu, nhưng đó là những tác phẩm được xếp vào hàng kiệt tác của hội họa châu Âu.

 

[9]  Modern fine-arts – giai đoạn mỹ thuật từ cuối thế kỷ 19 đến khoảng thập niên 70 của thế kỷ 20 – trong tiếng Nhật được dịch là “mỹ thuật cận đại” (近代美術). Một số tài liệu ở Việt Nam lại dịch “modern fine-arts” là “mỹ thuật hiện đại” (mà theo Hán - Việt là 現代美術). Theo thiển ư của tôi, cách tốt nhất để tránh hiểu nhầm là gọi các thời kỳ nghệ thuật theo năm, ví dụ: “Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20”, “Hội họa Việt Nam giai đoạn 1925 – 1975”, “Hội họa Việt Nam sau 1986”, v.v. v́ tất cả các tính từ như “cận đại”, “hiện đại”, “hậu hiện đại”, “đương đại”,v.v. đều chỉ có ư nghĩa tương đối.

 

[10] Xem  http://ribf.riken.go.jp/~dang/page1.html

 

[11] M. Larking, Surreal Vietnam imaginings, The Japan Times, 7/10/2005

http://ribf.riken.go.jp/~dang/BiCE/SurrealVN.htm

 

[12] M. Larking, The art of war, The Japan Times, 24/11/2005: http://ribf.riken.go.jp/~dang/ArtofWar.htm

 

[13] M. Larking, Nghệ thuật của chiến tranh, talawas, 10/3/2006

http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=6633&rb=0202

 

 [14] Y. Isobe, trong Cửa sổ mỹ thuật (美術の窓) số 266, tháng 11/2005, tr. 325

http://ribf.riken.go.jp/~dang/Shutai41/bijutsunomado.htm

 

[15] Nguyễn Đ́nh Đăng, Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Việt Nam chinh phục Tokyo, Người viễn xứ, 6/10/2004  

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/service/printversion.vnn?article_id=523058

 

[16] ODA (Official Development Assistance): quỹ hỗ trợ phát triển của 7 nước phát triển (G7) thành lập năm 1972 nhằm mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi xă hội cho các nước đang phát triển bằng cách cho các nước này vay tiền nợ dài hạn với lăi xuất ưu đăi thông qua các tổ chức của chính phủ. Nhật Bản là nước đóng góp nhiều thứ 2 cho quỹ này (8.9 tỉ USD trong năm 2004) sau Hoa Kỳ (19 tỉ USD).

 

[17] PMU (Program Management Unit): Ban quản lư các dự án. Năm 2006 một tổng giám đốc PMU (PMU 18) thuộc bộ Giao thông vận tải bị phát hiện đă nướng hơn 2.6 triệu USD công quỹ để cá độ bóng đá. Vụ này khiến một thứ trưởng phải ngồi nhà đá và một bộ trưởng bị mất ghế.

 

[18] Vietnam Airlines (VNA): hăng hàng không dân dụng của Việt Nam do nhà nước độc quyền. Năm 2006 hăng này vướng vào nhiều vụ bê bối như vụ thua kiện mất 5.2 triệu euro, vụ cho nhiều con cán bộ cao cấp đi du học ngoại quốc bằng tiền của hăng, vụ thiệt hại hàng triệu USD v́ thương vụ mua Boeing 777 v.v. Vietnam Airlines cũng từng bị một số hành khách than phiền về văn hóa phục vụ (ví dụ, xem bài “Vietnam Airlines và văn hoá đối xử với hành khách” của Nguyễn Văn). Ông tổng giám đốc (TGĐ) hăng này từng “nổi tiếng” quốc tế v́ đă mắng phóng viên BBC là “thiếu văn hóa” trong khi trả lời phỏng vấn của đài này ngày 23/12/2004. Trả lời câu hỏi của phóng viên BBC v́ sao VNA không mở đường bay sang Hoa Kỳ vào năm 2004, trong khi United Airlines đă mở đường bay từ San Francisco sang Việt Nam, ông TGĐ này nói: “V́ tôi không thích, v́ tôi chưa thích!