Pièrre Darriulat
Việt
Nguyễn Đình Đăng dịch
Giáo sư Pièrre
Darriulat (sinh năm 1938) là một nhà vật lý hàng đầu quốc tế, viện sĩ Viện Hàn
lâm Khoa học Pháp từ năm 1986. Từ năm 1979 đến năm 1987 ông là người
phát ngôn của thí nghiệm UA2 nổi tiếng tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu
Âu (CERN) nhằm tìm ra các hạt boson W± và Z0 trong lý
thuyết thống nhất tương tác yếu và tương tác điện từ. Từ 1987
đến 1994 ông là giám đốc nghiên cứu tại CERN. Năm 1978 CERN thông qua ý
tưởng đặt thí nghiệm tại hai điểm của máy gia tốc Super Proton Synchrotron
(SPS) năng lượng 450 GeV để đạt được năng lượng đủ lớn tạo bởi va chạm của các
chùm proton và phản proton bay ngược hướng nhau nhằm tạo ra các hạt bosons của
tương tác yếu có khối lượng trong vùng 80 - 100 GeV. Thí nghiệm UA1 được đặt tại
điểm thứ nhất do Carlo Rubbia, giáo sư đại học Harvard, đứng đầu. Thí nghiệm
UA2 được đặt tại điểm thứ hai do Pièrre Darruilat chỉ đạo. Ngày 20 tháng 1 năm
1983 nhóm của C. Rubbia công bố kết quả của 5 va chạm
sinh ra các hạt W boson đo được tại UA1. Sáng hôm sau nhóm của P. Darriulat
công bố kết quả của 4 va chạm đo được tại UA2. Tháng 5/1983 hạt Z0 cũng được phát hiện. “Vì
những đóng góp quyết định vào những dự án lớn đưa đến những phát hiện nói trên”
(đặc biệt là ý tưởng dùng SPS của CERN để tạo va chạm giữa proton và phản
proton trong cùng một vòng xuyến của máy gia tốc) Carlo Rubbia và Simon van der
Meer được trao giải Nobel về vật lý năm 1984.
Năm 1998, sau khi nghỉ hưu, giáo sư P. Darriulat sang Việt
Trong dịp về Việt
Nguyễn Đình Đăng
Cách đây ít lâu ban biên tập của Vật lý ngày nay,
tạp chí của Hội Vật lý Việt Nam, có kêu gọi các nhà khoa học nước ngoài gửi bài
nhận định về hiện trạng của nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học ở Việt Nam.
Tôi đã nhân dịp này viết một bài báo mà các trích đoạn và bản
được biên tập lại đã xuất hiện trên vài tạp chí [1] . Gần đây, giáo sư Hoàng Tuỵ có viết một
bài báo xuất sắc đăng tại Tia sáng [2] , tổng kết đầy đủ tình trạng (giáo dục) ở
Việt
Để cho ngắn gọn, tôi cho rằng hiển nhiên Việt Nam
chưa có các trường đại học và viện nghiên cứu mà đất nước này xứng đáng phải
có, và rằng sự phát triển nhanh chóng hiện nay đòi hỏi một sự cải thiện quan trọng
về chất lượng đào tạo đại học và về nghiên cứu nhằm khắc phục sự chậm trễ do sự
mất mát của những hai thế hệ các nhà khoa học mà 30 năm chiến tranh đã gây ra. Điều này đã được nhắc tới nhiều lần và không cần phải tranh cãi.
Vì thế, tôi sẽ tập trung vào những hành động cụ thể, mà theo
quan điểm cá nhân và có thể sai của tôi, có thể áp dụng để tiến bộ.
Tôi không thích phê phán những gì
tôi thấy ở Việt
1. Sự cần thiết của các đường
lối chung
Có một số câu hỏi cơ bản cần được
trả lời nhằm định ra một cơ cấu cho đại học và nghiên cứu có thể phát triển. Những câu hỏi đó là: “Vì
sao Việt
Ở Việt Nam người ta hay viện dẫn các “tiêu chuẩn quốc
tế” như thể không còn cách giải quyết nào khác cho các vấn đề của Việt Nam
ngoài cách sao chép ngoại quốc hoặc cầu cứu những người ngoại quốc được gọi là
chuyên gia để cứu vãn tình trạng Việt Nam. Phần lớn các vấn đề
đều có thể được giải quyết từ bên trong; chúng đòi hỏi trước hết tính trung thực,
lý trí thường thức, lòng dũng cảm, và quyết tâm. Cái điệp khúc cũ rằng Việt
Nam còn nghèo là một sự bao biện tồi: thực sự các gia đình Việt Nam đã chi
nhiều, rất nhiều tiền để gửi con cái họ ra ngoại quốc học; số tiền đó lẽ ra có
thể được sử dụng ở nhà để cải thiện hệ thống giáo dục đại học và đấu tranh chống
lại tai hoạ chảy máu xám hiện chưa hề có dấu hiệu suy giảm. Tôi nhớ tới một bộ
phim [3] về
chuyện một cô bé Hà Nội được gửi sang Hoa Kỳ học, tới một vùng hẻo lánh tại miền
nam nước Mỹ, trong một môi trường hoàn toàn thiếu văn hoá: Thật là phí tiền tới
chừng nào! Tôi cũng biết những trường hợp các thực tập sinh sau tiến sĩ
(postdoc) rất xuất sắc trở về Việt
Dưới đây tôi minh hoạ cho lập luận
của mình bằng vài thí dụ.
Năm mươi năm trước, các nước phương
Tây đã quyết định dân chủ hoá các trường đại học của họ, bằng cách nhận nhiều
sinh viên hơn trước [4] . Về nguyên tắc,
đó là một ý tưởng hào phóng, và tôi tin rằng đó là một thành công tổng thể.
Tuy nhiên, về chi tiết, đã gặp phải nhiều thất bại khiến người
ta cần xét lại ý tưởng đầu tiên. Có rất nhiều sinh
viên vào đại học nhưng hoặc là không có khả năng, hoặc lười nhác. Người ta
phải nghĩ ra các chương trình đào tạo ngắn hạn, một hoặc hai năm, để chuyển các
sinh viên này sang các trường dạy nghề khi vẫn còn thời gian (Tiện đây, điều
này cho thấy, ta không thể nghĩ về đại học một cách cô lập mà phải trong một nội
dung rộng hơn của giáo dục nâng cao). Những sinh viên yếu, không thể nhận bằng
tốt nghiệp, buộc phải đương đầu với vấn đề lớn là tìm việc làm sau khi đã “mất”
vài năm tại đại học. Những câu hỏi được đặt ra ở đây là những
lựa chọn rất cơ bản của xã hội, như dân chủ và công lý (mỗi người phải có quyền
được học nhưng các sinh viên giỏi hơn cũng phải có quyền tiến bộ với tốc độ
nhanh hơn mà không bị các bạn đồng niên kém tài hơn níu chân).
Theo kinh nghiệm Việt
Ví dụ thứ
hai: Hiện nay ở Việt
Ví dụ thứ ba:
vai trò của nghiên cứu trong các trường đại học. Tại các nước phát triển nhất,
một điều được công nhận là: các trường đại học không có đủ cơ sở nghiên cứu là
các trường đại học hạng thấp. Việt
Ví dụ cuối cùng: khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng. Trong khi rõ ràng Việt
Tôi không nghi ngờ rằng giới lãnh đạo đã có các câu
trả lời cho các vấn đề lớn như vậy, nhưng có vẻ như ở cấp dưới, chẳng hạn cấp
mà tôi có dịp trao đổi với các đồng nghiệp và sinh viên của tôi, chúng không hề
được biết đến. Để đảm bảo tính chặt chẽ của tiến bộ và để tránh mỗi cá nhân có
thể rẽ dây cương theo bất kỳ lối nào có lợi nhất cho
mình, những câu trả lời này cần được đưa ra một cách mạch lạc và phổ biến rộng
rãi để mọi người có thể hiểu rõ nội dung của chúng.
2. Cái gì cần được ưu tiên
cải thiện?
Nếu người ta yêu cầu tôi chỉ ra một việc cần làm để
cải thiện chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu Việt
Tôi không ngây thơ tới mức nghĩ rằng đây là một việc dễ dàng.
Tôi biết rõ rằng nó bao hàm một cải tổ nhân sự rất đau đớn và lâu dài, với một
sự sàng lọc chọn lựa các giảng viên, nghiên cứu viên, và các đề tài nghiên cứu
khắt khe hơn những gì hiện nay người ta đang làm, và một đánh giá nghiêm khắc
giá trị của chúng. Việc này còn bao hàm cả những biện pháp
chuyển đổi khó khăn và tốn kém như áp dụng một chế độ nghỉ hưu sớm nhằm trẻ hoá
biên chế và cải thiện trình độ khoa học. Ở đây một lần
nữa chỉ đạo từ cấp cao nhất là điều bắt buộc phải có. Một chính sách rõ
ràng và một kế hoạch được chuẩn bị kỹ lưỡng là những điều kiện tiên quyết để thực
thi một việc như vậy, cho phép các đường lối chính xác và chặt chẽ được vạch ra
và trở nên có hiệu lực. Nhiều câu hỏi cần được trả lời, ít nhất là về đường lối
chung, từ cấp cao nhất. Tăng lương không có nghĩa là
tăng lương tất cả theo một kiểu mà là đưa biện pháp đặc biệt này vào một kế hoạch
cải tổ rộng lớn hơn: tuyển chọn là cần thiết nếu muốn có công lý và, hệ quả sẽ
đưa đến một động cơ và quyết tâm xây dựng cho đất nước một nền giáo dục và
nghiên cứu chất lượng cao xứng đáng.
3.
Việt Nam cần tin vào mình hơn, mở cửa ra thế giới rộng hơn
Khó khăn nghiêm trọng mà Việt
Sự thiếu tin tưởng vào khả năng và trình độ của giới
trẻ Việt Nam thật trái ngược với thái độ tự hào quá đáng khi cần đến sự cố vấn
của các nước hay các chuyên gia ngoại quốc trong việc lựa chọn các phương án về
chính sách khoa học hay tuyển chọn từ các dự án nghiên cứu cho đến cả biên chế
nghiên cứu hay giảng dạy. Việc đưa người ngoại quốc vào hội đồng
tuyển chọn đã trở thành thường lệ tại hầu hết các nước, một việc giúp cho cho sự
đánh giá trở nên khách quan, không thiên vị, mở cửa ra thế giới. Ví dụ
như việc đào tạo tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của hai giáo sư, một người từ một
trường đại học nước ngoài và người kia từ đại học Việt
Đã đến lúc phải kết luận. Tôi
đã chọn ba chủ đề mà tôi cho là đặc biệt quan trọng và tôi đã bộc lộ rất thẳng
thắn những phản ứng mà chúng đã châm ngòi. Tôi hiểu rõ sự thiếu hiểu biết
của tôi về nhiều điều tế nhị - những điều đã làm các vấn đề đó trở nên không
đơn giản như tôi tưởng: Tôi xin cáo lỗi vì sự quá ngây thơ của tôi khi bàn về
những vấn đề này. Tuy nhiên tôi hy vọng rằng tôi không thể bị trách cứ vì đã
nói những gì tôi đã nói, vì đã có bất cứ quan tâm nào đó ngoài việc giúp đỡ đào
tạo và nghiên cứu nói chung và khoa học Việt
Tôi không nghi ngờ rằng cải thiện
đào tạo đại học và nghiên cứu khoa học phải là một trong những ưu tiên bậc nhất
của đất nước. Cũng đã rõ rằng việc này không thể được tiến hành tuần tự nhi tiến không mất mát, như tôi thường nghe nói, với một vài
cải cách đây đó. Việc này cần một cuộc cách mạng thực sự.
Để cho điều đó có thể xảy ra, một ý muốn mạnh mẽ và quyết tâm
thay đổi sâu sắc nhằm cải thiện tận gốc rễ chất lượng của giáo dục đại học và
nghiên cứu phải được bộc lộ trong quần chúng. Một cuộc cách mạng như vậy
bao gồm sự phân tích nghiêm khắc hiện trạng và vạch ra rõ ràng và trung thực những
yếu kém cơ bản và những lề thói xấu. Thế hệ trẻ phải được
trao cơ hội xây dựng một nền đại học mà đất nước có thể tự hào.
Các nhà khoa
học châu Âu cỡ tuổi tôi rất biết ơn thế hệ trước, trong khi cống hiến sự nghiệp
của mình để khôi phục khoa học sau Thế chiến thứ II, đã trao cho chúng tôi những
trách nhiệm quan trọng khi chúng tôi còn rất trẻ. Cách đây ít
lâu, tôi có dịp thảo luận vấn đề này với nhà hoá học Nhật Bản đoạt giải Nobel
Ryoji Noyori [7] khi
ông thăm viện chúng tôi. Ông ta nói về những trải nghiệm
của ông cũng hệt như vậy. Mong sao thế hệ mới của sinh viên Việt
(bản đăng tại talawas ngày
[1]Vật lý ngày nay, XVII 4-75 (tháng 8,
2006) tr. 14; Tia sáng, 13 (5/7/2007) tr. 16; Études vietnamiennes,
2-164 (2007) 35; Sức khoẻ & Đời sống, 103-2052 (30/6/2007) tr. 12; Văn
hoá, 1394 (29/6/2007) tr. 11; Symmetry, 3-4 (May 2006)
Fermilab-SLAC; Lettre de l’Académie des sciences (France), 18 (Winter
2006) 10.
[2]Hoang Tuy, “New Year, old story”, Tia sáng
(
[3]Nước Mỹ của Mai, phim của Marlo Poras
đã chiếu tại Hà Nội tháng Năm 2006.
[4]Ở
Pháp, số sinh viên tăng từ 29.901 vào năm 1991 lên tới 1.309.100 vào năm 2005,
tức gần 44 lần trong một thế kỷ. Số người nhận bằng tiến sĩ (PhD) trong khoa học
tăng từ 42 vào năm 1901 lên 5283 vào năm 1999 (126 lần). Cũng trong cùng thời
gian đó, tại Hoa Kỳ, số sinh viên tăng từ 238.000 tới 17.272.000 (73 lần), và tổng
số tiến sĩ, trong tất cả các ngành, tăng từ 382 lên 48.000, tức cũng lại là 126
lần. Phần lớn tăng sau Thế chiến thứ II.
[5]Tôi
chủ yếu nghĩ về các viện nghiên cứu trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, đặc biệt
là Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia Việt
[6]Gần
đây tôi được biết rằng trong khoảng 100 sinh viên Việt Nam xuất sắc, được chọn
gửi sang École Polytechnique (Đại học Bách khoa) của Pháp trong vòng 10 năm trở
lại đây, không có em nào quay về Việt Nam.
[7]Ryoji Noyori (sinh 1938) là nhà hoá học Nhật Bản
đoạt giải Nobel về hoá học năm 2001. Ông hiện là chủ tịch viện
nghiên cứu vật lý hoá học Nhật Bản (RIKEN) (chú thích của N.D.).
Nguồn: Dịch từ nguyên
bản tiếng Anh do tác giả cung cấp ngày