Tiễn bố (Bài viết tiễn đưa thân sinh Nguyễn
Đình Nam qua đời ngày 29/9/2009 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.) Nguyễn
Đình Đăng Bố yêu quý, Thật khó chấp nhận ý
nghĩ rằng đây lại là lời đưa tiễn bố vào cõi vĩnh hằng, hay về với cát bụi, như
sinh thời bố thường nói. Chúng con không biết
có bao nhiêu trí thức Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy chịu đựng trong
cõi đời như bố. Song chúng con biết chắc chắn rằng bố đã nhẹ nhàng thư thái
ra đi sau khi đã hưởng niềm hạnh phúc lớn nhất trên thế gian này: Tình Yêu.
Vâng, sau bao nhiêu ảo vọng, khi niềm tin vào lý tưởng đã bị thực tế phản
bội, khi sự thật về cuộc đời phù du này chỉ được bố tóm tắt bằng câu:
“Vanitas vanitatum omnia vanitas” (Hư danh của hư danh, tất cả đều là hư
danh), thì chỉ có Tình Yêu là lý do duy nhất khiến cho cuộc đời này trở nên
đáng sống. Một trong các vĩ
nhân của nền văn minh Pháp mà bố thường nhắc đến, Blaise Pascal tiên sinh
từng nói: “Sự rõ ràng trong tư tưởng cũng có nghĩa là sự rõ ràng trong niềm
say mê. Đó là lý do vì sao những bộ óc vĩ đại và minh mẫn từng yêu rất mãnh
liệt và hiểu rõ mình yêu cái gì.” Một tình yêu nồng nàn đã tỏa sáng lấp lánh
từ những vần thơ bố viết tặng mẹ ngày 16 tháng 7 năm 1967 khi cuộc chiến
tranh phá hoại do Hoa Kỳ tiến hành trên miền Bắc Việt Nam đang ở lúc gay go
ác liệt: Đêm
nay anh sẽ nhìn em ngủ,
Hôn
mái tóc thơm, miệng nở hoa.
Trăng
sáng ghé nhìn qua cửa sổ,
Thấy
tình đằm thắm vợ chồng ta. Dự
định của anh đã chẳng thành,
Lá
thư vừa đến, mộng tan tành:
Em
không về được vì công tác,
Mênh
mông buồn ngập cõi lòng anh! Buồn
đến rồi ra lại ước mong,
Không
ai yêu mến vợ bằng chồng.
Tuần
này anh đợi em về nữa.
Em có
yêu anh, có nhớ không? Hạnh phúc lớn nhất của
gia đình ta là bố đã gặp mẹ. Hạnh phúc tiếp theo là cả bố và mẹ đều từng du
học ở Pháp. Cũng như nhiều sinh viên Việt Nam thế hệ của những năm 40, bố say
mê văn chương, khoa học phương Tây thông qua nước Pháp, nhưng lại căm ghét
chế độ thực dân ở Đông Dương. Đó không phải là một nghịch lý nếu hiểu rằng
không ít trí thức Việt Nam luôn có chung một suy tư rằng chỉ có dân trí cao
và kiến thức văn minh của nhân loại mới làm cho quốc gia nhỏ bé này ngẩng mặt
được với năm châu, chỉ có những giá trị toàn cầu mới giúp dân tộc Việt Nam
thoát khỏi cái mặc cảm nhược tiểu thâm căn cố đế ngự trị trong tâm lý của
những cư dân trên dải đất hình chữ S. Cũng bởi lý do đó mà trí thức Việt Nam,
bên cạnh Nguyễn Du, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Bà Huyện Thanh Quan của mình,
trong khi liên tục phải đấu tranh lật ách đô hộ và sự đồng hóa của bá quyền
phương bắc, vẫn trích dẫn Đỗ Phủ, vịnh Đường Thi, đọc Cổ Học Tinh Hoa, sử ký
Tư Mã Thiên, xem tranh Từ Bi Hồng, Tề Bạch Thạch, trong khi chống lại thực
dân Pháp vẫn say sưa từ Corneille, Racine, Molièrre, Lamartine, Hugo, tới
Musset, Baudelaire, Verlaine, André Gide, và trong chiến tranh Việt Nam, các
trí thức Hà Nội vẫn trân trọng những tư tưởng tự do và nhân quyền của Patrick
Henri, Franklin Roosevelt. Chính vì vậy mà, mặc dầu những khó khăn chung của
đất nước trong chiến tranh, chúng con từ nhỏ đã nhận được một nền giáo dục
toàn diện từ chính bố mẹ mình. Nền giáo dục tự do dân chủ trong tình yêu
không vụ lợi này ưu việt hơn hẳn những gì chúng con đã “được dạy” trong nhà
trường. Nhà văn Nga Anton Tchekhov từng nói đại ý rằng giá trị của đời
người được đo không phải bằng số năm tháng, mà bằng những khoảnh khắc đáng
ghi nhớ trong cuộc đời đó. Năm 1972 Mỹ lại ném bom miền Bắc. Mọi người ở
thành thị một lần nữa lại phải đi sơ tán. Lần này gia đình ta phải chia làm
bốn. Bố sơ tán cùng trường bố dạy học. Minh đi bộ đội theo lệnh tổng động
viên. Mai Chi theo mẹ. Đăng sơ tán theo trường nhạc. Một ngày tháng mười, mẹ,
Mai Chi và Đăng đạp xe đi thăm bố. Con đường từ chỗ Đăng sơ tán đến chỗ bố
dài khoảng ba chục cây số, và đi qua Sơn Đồng – một thị trấn nhỏ nằm trên
trục đường nhựa đi Hà Nội nhưng khá sầm uất với nhiều hàng phở, quán cơm hai
bên đường. Ba mẹ con đến Sơn Đồng vào gần trưa và đều đói. Vì thế mẹ bảo dừng
lại ăn trưa tại một quán phở cạnh đường. Tuy nhiên, trước khi gọi phở mẹ bỗng
dưng đổi ý định, nói: “Ngồi ăn ở đây cũng mất ít nhất nửa tiếng. Bố chờ lâu
sẽ sốt ruột và lo. Hay là các con và mẹ ráng chịu đói, đạp xe đi tiếp. Gặp bố
rồi ăn sẽ càng vui.” Thế là ba mẹ con lại lên xe đạp và tiếp tục đi. Sau khi
ba mẹ con đi khỏi Sơn Đồng được chừng nửa cây số thì máy bay Mỹ ập tới oanh
tạc thị trấn. Trận bom đó đã san phẳng Sơn Đồng. Nhiều người chết. Người ta
thấy cả những xác trâu trúng bom bị hất tung lên nằm vắt trên cành cây to. Dãy
hàng quán hai bên đường qua thị trấn bị bom phá sập tan tành, kể cả cái quán
phở tại đó mẹ và chúng con suýt nữa đã ngồi lại ăn. Tình yêu đối với bố đã
cứu ba mẹ con thoát chết. Tình yêu đó cũng đã giúp mẹ vượt qua mọi khó khăn
về tinh thần, vật chất, tuổi tác, để chăm sóc bố trong suốt 23 năm kể từ sau
khi bố bị tai biến mạch máu não vào năm 1986. Niềm say mê của bố
không chỉ được đóng khung trong văn chương, tiếng Anh, tiếng Pháp, toán học,
âm nhạc, mà còn lan sang cả các lý tưởng đương thời. Và đây là điểm bắt đầu
mọi đau khổ tinh thần của bố, cũng là của các con cháu – những người thừa
hưởng từ bố và ông của chúng một tình yêu chân lý tuyệt đối, một niềm tin vào
sự hoàn hảo, không chịu được những gì hời hợt, giả tạo, nửa vời, công phẫn
trước những ngang trái, băng hoại đạo đức trong xã hội. Tiếc thay, thế giới
này ngay từ đầu đã không hoàn hảo. Ở một đất nước đầy đau khổ như Việt Nam nó
lại càng bất hoàn hảo tới mức bất … hảo! Song chúng con chắc bố cũng không
muốn nhắc lại những điều ti tiện nhỏ nhen mà cuộc đời đã bắt bố phải gánh
chịu để nuôi dạy chúng con nên người. Trong ký ức của chúng con không chỉ có
những hình ảnh bố thời thanh xuân chụp với ông bà và các cô chú dạo chơi trên
bãi biển Sầm Sơn, bố mẹ sóng đôi đi dọc boulevard Saint Michel, đứng trên cầu
trong công viên Montsouris ở Paris, những buổi tối cả nhà ta quay quần quanh
mâm cơm, rồi sau đó trẻ con cãi lộn, đùn nhau rửa bát. Chúng con còn thấy
hiện lên bóng dáng bố, đầu đội mũ sắt, chân đi ủng, gò lưng đạp xe trên con
đường thôn quê còn chưa khô hết bùn, thồ gạo, dầu, mắm, muối, sách vở và cả
đĩa hát về nơi sơ tán cho chúng con, nghe văng vẳng đâu đây dọng ca thiên
thần của Tino Rossi J’attendrai
le jour et la nuit
J’attendrai
toujours ton retour
J’attendrai
car l’oiseau qui s’enfuit
vient
chercher l’oubli dans son nid
Le
temps passait court en battant tristement
dans
mon coeur si lourd
Et
pourtant j’attendrai ton retour phát ra từ cái kèn
hát chạy bằng dây cót bố đem từ Hà Nội về nơi sơ tán, thấy lấp loáng mảnh vải
nhựa màu lục bố khoác làm áo mưa khi đi ra chợ quê mua da trâu về để ninh cho
chúng con ăn thay thịt, thấy vầng sáng vàng vàng của ánh đèn bão chiếu lên
chân dung Nikolai Lobachevsky mà bố bảo Đăng vẽ để minh hoạ trong buổi nói
chuyện ngoại khoá của bố về hình học phi Euclid cho các học sinh cấp 3 tại
nơi sơ tán, nghe thấy vang lên tiếng bố gọi: “Mai Chi…i !” rồi tiếng tiếng
bánh xe đạp của bố đập vào rễ cây bàng sau cổng nhà mình mỗi khi bố đi dạy
học về. Và cứ mỗi lần nghĩ như vậy, bên cạnh nỗi buồn vô hạn là bố đã đi xa, chúng
con lại thấy lâng lâng một niềm tự hào vì được làm con của bố. Bố ơi, Bố thường nói: “Chết
là hết.”, song chúng con không tin như vậy. Cho dù không chắc có một chốn
Thiên Đàng nơi những người hiền sau khi chết sẽ bay lên ngồi bên cạnh Chúa
Trời, hay một Địa Ngục nơi những kẻ tham lam, tàn ác, tội lỗi, sẽ bị lũ quỷ
sứ hành hạ, chúng con tin rằng, con, cháu, chắt, … chính là sự tiếp nối cuộc
đời của con người. Chính vì vậy hình ảnh, tinh thần của bố sẽ luôn sống cùng
con cháu – những người mang DNA của bố. Sự chết tróc về thể xác chỉ như những
chiếc lá rụng từ cây đời mãi mãi xanh tươi. Đúng như một đại văn hào Pháp mà
bố ưa thích, cụ Anatole France, từng nói, chỉ có những người tầm thường,
những người không biết làm gì với cuộc đời này mới muốn sống mãi không bao
giờ chết. Mong bố hãy yên nghỉ. Tinh thần, tư tưởng mà bố đã truyền cho các
con cháu và các học trò của mình sẽ còn mãi với thời gian. Tokyo, 2 tháng 6
năm 2009 |
© 2009 Nguyễn
Đình Đăng