Đây
là bài báo đầu tiên của tôi, được
đăng tại “Người Hà Nội” 15/9/1988,
nhưng đă bị cắt xén vài đoạn. Dưới
đây là nguyên văn của bài báo nàỵ
Nguyễn Đ́nh
Đăng
Nhớ
bác Phái
Nguyễn
Đ́nh Đăng
Chân
dung hoạ sĩ Bùi Xuân Phái
1986, bút ch́.
Cho đến những
ngày cuối cùng của đ̣i ḿnh ông vẫn không có
được một chỗ làm việc để có thể
gọi là “xưởng vẽ” - “un atelier”, như những
người sính tiếng Tây thường nói. Ông vẽ,
đọc sách, tiếp khách, ngẫm nghĩ, hút thuốc, uống
li rượu hay chén trà đều tại một chỗ cạnh
cửa sổ trong căn pḥng chật hẹp và tối ngay
cả khi ngoài trời đang nắng chang chang. Nửa trong
của căn pḥng, được che bằng rèm, là chỗ
ngủ của gia đ́nh ông. Muốn vào căn pḥng đó phải
đi qua một khoảng sân trơn ướt mà ánh sáng chỉ
rọi từ trên cao xuống. Căn pḥng đó đă trở
nên quen thuộc đối với những người có
vinh dự được tiếp xúc với ông. Tôi là một
trong số những con người có may mắn ấy.
Tôi nghe tiếng ông từ
khi tôi c̣n đi học phổ thông, qua những mái nhà méo mó
xiêu vẹp bị đè nặng dưới bầu trời
xám của Hà Nội mùa đông trong một số bức
tranh của ông treo tên tường ở những nơi tôi
t́nh cờ đạt chân tới. Khi lớn hơn một
chút, qua một thày dạy đàn, tôi được nghe nhiều
về ông, kể cả những chuyện như ông đă từng
đau khổ đến thế nào khi bị kẻ cắp
cuỗm mắt hộp màu buộc sau xe
đạp. Lúc đó tôi vẫn chưa
được thấy ông.
Măi đến gần
đây, vào đầu năm 1986, sau khi học ở Liên Xô về
nước, nhờ một người cô ruột là bạn
của vợ ông giới thiệu, tôi mới được
gặp ông. Cuộc gặp gỡ đầu
tiên ấy tôi không khi nào quên. Nó xảy ra vào mô,t buổi chiều giáp Tết. Ông hẹn tôi
tới nhà lúc ba giờ chiều. Đúng giờ
tôi tới. Ông vừa ngủ dậy:
-
À,
anh Đăng! Đúng giờ gớm nhỉ!
Tôi vội
xin lỗi v́ đă đánh thức ông. Ông phà trà và hỏi tôi có uống
rượu không. Tôi nói tôi không uống
rượu. Từ đó ông không khi nào ép
tôi uống rượu nữa. C̣n tôi sau
này vẫn được ngồi “hầu” rượu các
ông. Câu chuyện xoay quanh đời sống
hội họa ở Liên Xô mà qua tôi - một người vừa
từ “bên ấy” về - ông muốn biết những tin
nóng hổi nhất. Tôi xin phép vẽ ông bằng bút ch́
trên cặp giấy vẽ tôi đem theo.
Bức chân dung đó tôi vẫn giữ cùng với bức
chân dung sơn dầu tôi vẽ ông sau này [1]. Ông xem bức
kư họa tôi vừa vẽ xong và nói: “À! Được
lắm, được lắm!” Qua vẻ mặt ông,
tôi hiểu rằng ông đă tin tôi. Sau này tôi nhận thấy
ông không khi nào nói “đẹp” hay “xấu” đối với
một bức tranh, mà chỉ nói “Được” hoặc
“Chưa được” .
Ông không triết lư trong nói chuyện. Chuyện của ông
thường rất đơn giản, tưởng như
vu vơ, nhưng đến cuối
người tiếp chuyện bỗng thấy lóe lên những
chân lư thật giản dị mà vô cùng sâu xa. Ông thường
nói con đường đi trong sáng tạo là phải đạt
được su đon giản qua bao gọt rũa từ
những sự phức tạp. Hôi họa là
để tạo ra cại đẹp. Như
ông, cái đẹp vậy là phải đơn giản, giản
dị. Trong khoa học th́ cại đẹp
thường là sự biểu hiện của chân lư.
Như vậy, vô h́nh chung ông đă nối cái cầu giữa
“sự giản dị - cái đẹp - chân lư” .
Tranh của ông là một bằng chứng về
điều đó. Chúng giản dị
như chân lư. Chúng giản dị đến nỗi,
sau khi đă được ông sáng tạo ra, chúng có thể
dễ dàng được bắt chước bởi những
tay “cóp tranh” theo lối “ông Phái” đầy
rẫy ở Hà Nội. Tệ hơn, người ta c̣n cố
ư kư tên ḿnh na ná như chữ kư của
ông. Một lần, v́ thế, ông đùa: “Tôi phải liên tục
thay đổi kiểu để khỏi lẫn với họ”.
Tranh của ông được khách ngoại
quốc mua nhiều. Điều đó khiến lối
vẽ của ông trở nên ngày càng phổ biến, ít nhất
là ở các pḥng bán tranh. Tôi đă cố
t́m những bức tranh trong đó có những cách điệu
mái nhà Hà Nội khác lối của ông nhưng tôi đă không
t́m thấy. Người ta có thể
đua ra hàng loạt dẫn chứng rằng ông không phải
là người đầu tiên vẽ phố trên trái đất
này, nhưng không ai có thể phủ nhận được
rằng ông đă tạo nên một cách nh́n độc
đáo lên những ngôi nhà Hà Nội. Tranh
của ông không thể trộn lẫn với những tranh
phong cảnh khác vẽ phố Hà Nội. Và ngay cả
nếu chúng được bày lẫn với lô tranh của
những người làm giả tranh ông, những cặp mắt
sành sỏi vẫn phân biệt được “của thật”
với “của rởm”.
Ông
vẽ bằng tưởng tượng, theo
trí nhớ, tự bố cục. Ông không bao giờ vẽ thẳng
từ thiên nhiên, trừ vài nét kư họa trong sổ tay mà ông
gọi là “lấy tư liệu” .
Ông vẽ hàng loạt “Phố Hàng Giầy” khác
nhau, hàng loạt “Phố Hàng Bè” với những nhịp
điệu, đường kỷ hà kỳ lạ.
Màu ca ông đơn giản đến mức tối đa.
Vệt sơn phức tạp, trăn trở,
mà cả bức tranh thật b́nh dị… Có một người
quen đem chụp một chi tiết một bức tường
nhà trong tranh của ông lên phim màu Kodak rồi đưa cho
ông xem tấm ảnh, hỏi: “Đố ông tranh của ai
đây?” Tên tấm ảnh là một phiên bản
một bức tranh trừu tượng với nhữNg
chuyển độ rờn rợn, những ḍng sơn chảy
quánh như nham thạch núi lửa đang phun, những hắt
trắng lấp lánh như xà cừ. Ông nh́n rồi lắc
đầu: “Chịu!” – “Của ông chứ của
ai nữa!” – Khách cười thắng cuộc. Rồi khách cho ông xem phiên bản cả bức
tranh và chỉ ra phần chi tiết được phóng to.
Ông lại lắc đầu cười và “Chịu!”
lần nữa.
Tuy tôi không được gần ông trong những
ngày cuối của đời ông, nhưng tôi biết hoạ
sĩ Bùi Xuân Phái đă làm việc đến khi bệnh tật
không cho phép ông cầm bút nữa. Tôi chợt nhớ,
khi vẽ chân dung ông bằng sơn dầu, có lúc tôi thấy
khuônn mặt ông trong chiếc mũ len cũ có ǵ đó giống
vẻ mặt Renoir [2] . Và Renoir cho đến
những phút cuối cùng của đời ḿnh c̣n nhờ buộc
bút vẽ vào tay để vẽ, khi thấp
khớp làm các ngón tay của ông tê cứng. Có lẽ
thiên bẩm đă như một vị quan ṭa khắc nghiệt
khiến các họa sĩ tài năng say mê đến vượt
qua ca” đau đớn và mết mỏi của tuổi
tác. Và chỉ có cái chết mới có thể bắt họ
dừng cây bút vẽ mà họ vẫn c̣n nắm trong tay.
Nguyễn
Đ́nh Đăng
Cái chết
của họa sĩ
1987,
sơn dầu, 100 x 146 cm
Tôi không tin ở mắt ḿnh khi ở nơi
đây, xa tổ quốc hàng ngàn dặm, đọc báo và biết
tin ông đă ra đi. Ngay cả sau khi biết đó là sự thật,
tôi vẫn không khỏi h́nh dung tới một ngày kia, sau khi trở về, tôi sẽ lại
đến thăm ông để sau khi chào ông, nghe ông nói vui vẻ:
“À, anh Đăng ấy à, vào chơi!” Thật
là đau đớn khi hiểu rằng không bao giờ tôi
được nghe thấy tiếng ông nữa.
Những bức tranh của ông c̣n đó. Chúng sống
măI với thời gian. Chúng đang và sẽ
c̣n là một trong những niềm tự hào của hội
họa Việt
viết xong ngày 26 tháng 7 năm 1988
tại Dubna (ngoại ô
___________
Chú giải:
[1] Nguyễn
Đ́nh Đăng, Chân dung họa sĩ Bùi Xuân Phái,
1986, sơn dầu, Triển lăm mỹ thuật thủ
đô tháng 10/1986 tại 19 Hàng Buồm, Hà Nội. (Chú thích năm
2006: Bức tranh này hiện ở trong sưu tập tư
nhân tại Đức.)
[2] Pièrre
Auguste Renoir (1841 – 1919) - họa sĩ Pháp, một trong những
người khởi xướng hội họa ấn
tượng.
[3] Paul
Valéry (1871 – 1945) – thi sĩ Pháp, chịu ảnh hưởng
của trường phái tượng trưng (symbolism), tác
giả nhiều tiểu luận về hội họa, kiến
trúc, vũ, v.v.