Tôi bắt
đầu vẽ kể từ khi lên 4 – 5 tuổi, coi như hồi đó là một trò chơi, liên tục cho đến
nay kể như đã hơn 40 năm [1] . Edgar Degas [2] từng nói rằng “Lúc 25 tuổi thì ai cũng có
tài. Cái khó là làm thế nào giữ được đến 50 tuổi
vẫn là người có tài”.
Mào đầu như thế để độc giả thấy rằng tôi cũng có chút hiểu biết
về hội họa. Hôm nay, tình cờ đọc bài “Vì
sao Việt Nam chưa có họa sĩ lớn?” của Nora Taylor đăng trên talawas [3] , tôi có một số suy nghĩ sau đây.
Thực ra câu hỏi đó có thể áp dụng không riêng gì cho hội họa.
Có lẽ vì cô Taylor nghiên
cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam nên chỉ
giới hạn câu hỏi trong lĩnh vực mỹ thuật mà thôi. Có thể đặt nhiều câu hỏi
tương tự như: “Vì sao Việt Nam chưa có nhà khoa học lớn?
nhà văn lớn? nhạc sĩ lớn? nhà triết học lớn? v.v.” Cũng là nhìn lên
một bầu trời bao la đầy tinh tú, tại sao Việt Nam không
có Galilei và Copernic của mình? Cũng là đứng trước một đại dương
mênh mông cuồn cuộn sóng, sao không có một Vasco de Gama, Marco Polo, hay Columbus của Việt Nam? Rất
nhiều trí thức Việt Nam cũng
đã từng đặt câu hỏi đó. Trong số họ cũng đã có những người đưa ra những cách giải
thích khá rõ ràng, tuy có thể họ không đưa in, ý kiến của họ không được in, hoặc
họ không dám in lên báo hay internet như cô Taylor. Bởi
vì cô là người ngoại quốc, người ngoài cuộc. Nếu có “mệnh
hệ” nào thì quá lắm cô chỉ bị trục xuất hoặc bị từ chối visa vào Việt Nam lần
sau là cùng. Còn nếu là người Việt Nam đang sống
tại Việt Nam thì
sao?
Không cần nói độc giả cũng tự hình dung chuyện gì sẽ có thể xảy ra – và trên thực
tế là đã từng xảy ra - với những người “khác ý kiến” tại một đất nước mà quyền
tự do tư tưởng – tư do ngôn luận - tự do biểu hiện thực chất chưa bao giờ được
áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người! Từ thuở xa xưa khi người Việt còn dùng
Hán tự rậm rịt như rừng để viết nên ngôn ngữ của mình,
các giáo sĩ Bồ Đào Nha rồi sau đó là Pháp đã vào truyền giáo ở Việt Nam. Họ chỉ
bị trục xuất, trong khi đó nhiều tín đồ ưu tú người Việt Nam của họ
đã bị nhà cầm quyền Việt Nam hành
quyết (một số sau này đã được Vatican phong
thánh).
Bi kịch đó đã xảy ra không chỉ một lần, mà lặp đi lặp lại dưới
nhiều triều đại, chế độ, trong lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc Việt.
Như một hệ quả tất yếu của lịch sử đó, một việc, là bình thường nếu được nói ra
giữa những người Việt Nam với nhau, sẽ trở nên khó chịu, thậm chí xúc phạm, đối
với người Việt nếu được phát ra từ miệng một người da trắng Âu - Mỹ. Cái bản
tính tự ti là kết quả tất yếu cho một dân tộc nhược tiểu, từng chịu nhiều đau
khổ duới ách đô hộ của 1.000 năm Bắc thuộc và gần 1 thế kỷ thuộc địa do người
da trắng mắt xanh - mũi lõ cai trị, mà ngay cả đến việc đánh thắng 3 đế quốc to
cũng không sao tẩy rửa đi nổi. Con châu chấu sau khi đã đá được xe nghiêng vẫn chỉ là con châu chấu mà thôi. Nó không thể biến
thành cái xe, cho dù là cái xe đổ. Ai
và cái gì chịu trách nhiệm về việc đó? Lẽ dĩ nhiên, cách dễ nhất là đổ lỗi
cho Tây, cho Tàu, cho chiến tranh, như vẫn thường được làm từ trước đến giờ
trong sách báo chính thống ở Việt Nam. Có rất ít người như cụ
Phan Châu Trinh có thể nhận thấy nguyên nhân lớn nhất của sự yếu kém của người
Việt Nam chính
là sự suy đồi dân trí. Có thể thấy người Việt – như do Thiên định – đã bỏ lỡ rất
nhiều cơ hội để đưa đất nước đi theo một con đường
khác. Cũng đứng trước ảnh hưởng của ngoại bang, người Nhật Bản đã biết gạt sang
bên những đố kỵ, hiềm thù sinh ra do bản năng sinh tồn, do quyền lợi trước mắt
của một số cá nhân, để mở cửa đất nước mình vào thời Minh Trị [4] . Ngược lại, nước Việt Nam đã chọn
con đường đối đầu. Đức tính biết phục thiện đã không đủ mạnh
để thắng nổi mặc cảm tự ti.
Cái mặc cảm tự ti đó thường trực trong mọi suy nghĩ hành động
của người Việt khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Hội
họa chỉ là một ví dụ.
Bố mẹ tôi đều từng tu nghiệp ở Pháp vào những năm 50 của thế
kỷ trước. Bố tôi học toán, sau này dạy toán. Mẹ
tôi học nhi khoa. Khi hoà bình lập lại vào năm 1954 mẹ
tôi là nữ bác sĩ duy nhất ở lại với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức là miền
Bắc cộng sản theo cách gọi của một số tác giả). Cho đến
lúc đó nước Pháp đã đào tạo cho Việt Nam cả thảy là 3 nữ bác sĩ,
nhưng 2 người kia đã đi Nam. Vì các cụ thân sinh ra
tôi là những người “Tây học”, nhà tôi lẽ dĩ nhiên có nhiều sách văn học bằng tiếng
Pháp, tiếng Anh. Bố tôi đã không đem sách đến trường đốt khi người ta vận động
đốt sách văn hóa tư sản vào những năm 1956 – 1960. Bố tôi thuộc lòng nhiều thơ
của Hugo, Lamartine, Musset, Rimbaud, Verlaine, và hay trích dẫn các câu từ
Shakespeare, Milton, Patrick Henry, v.v. Chính vì thế nên từ nhỏ tôi đã tiếp nhận
văn hóa phương Tây một cách tự nhiên. Tôi còn nhớ, hồi tôi lên 5 hay 6 tuổi gì
đó, có lần bố tôi cho xem một ký họa các nếp áo của Leonardo da Vinci và nói: “Con
thấy đẹp không? Chỉ vẽ bằng phấn mà các nếp vải trông mềm mại
như thật!” Sự
hiểu biết về cái đẹp đã đến với tôi như vậy. Trong đầu
óc trẻ thơ của tôi, đó là cái đẹp lý tưởng, hoàn mỹ nhất, và tôi không để ý nó
đến từ phương nào (Tây hay Đông). Tôi cũng được học âm nhạc từ khi lên 6
– 7 tuổi, học ký xướng âm qua thang âm châu Âu với 7 nốt “thường” (phím trắng)
và 5 nốt thăng (giáng) (phím đen) trên đàn piano. Cái tư duy âm nhạc châu Âu đó
đã giúp tôi, sau này khi học nhạc Á châu, mà ở Việt Nam gọi là nhạc dân tộc
(nhưng ngũ âm, trớ trêu thay, lại có tên Tàu là “cung, thương, giốc, chủy,
vũ”), hình dung ngay đó là âm thanh của 5 phím đen trên đàn piano.

|
“Đại dương mùa đông”,
tranh sơn dầu (162 x 194 cm, 2005) của Nguyễn Đình Đăng, giải “Tác giả có tác
phẩm đẹp” tại triển lãm “Chủ Thể” lần thứ 41 hiện đang diễn ra tại Tokyo
Metropolitan Art Museum (Tokyo, Nhật Bản)
|
Tuy nhiên đến khi bố mẹ tôi cho tôi
đi học vẽ, câu chê bai tôi thường được nghe từ các thày cô giáo dạy vẽ tôi là:
“Thằng này vẽ bị Tây”, xem như chịu ảnh hưởng của hội họa phương Tây là
cái gì xấu xa, tội lỗi, cần loại bỏ, mà lờ đi một sự thật rằng toàn bộ nền hội
họa Việt Nam theo cách trình bày như hiện nay là do người Tây du nhập vào hồi đầu
thế kỷ trước. Một nhà Việt Nam học – bạn thân của gia
đình tôi – khi đó khuyên tôi rằng: “Hội họa châu Âu có truyền thống hàng thế
kỷ. Mình làm sao theo nó được. Vì thế
muốn nó để ý đến mình thì phải làm cái gì có tính dân tộc.” Tôi cho rằng
ông đã rất chân tình, vì ông thực sự tin như vậy. Tuy nhiên, sau này tôi
hiểu rằng đó là một sự nhầm lẫn tai hại. Kết quả của sự
nhầm lẫn đó đã đẩy hội họa Việt Nam đi theo con đường “vừa dân tộc lại vừa
hiện đại” hết sức gượng ép, mà sản phẩm là hình thù các nhân vật thần thoại
Việt Nam (để cho đậm đà bản sắc dân tộc) vẽ bằng sơn mài (để khai thác chất liệu
cổ truyền) bị bóp méo theo kiểu lập thể giải tích “à la Picasso” (để mang tính
hiện đại) đến mức kệch cỡm.
Miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 là xã hội
“tiến thẳng lên XHCN không qua giai đoạm TBCN”. Việc “đốt cháy giai đoạn” này
đã thấm đến mọi lĩnh vực của xã hội: giáo dục, y tế, quản lý, v.v. Hội họa
không thoát khỏi xu thế đó. Kiến thức không được hệ thống
hóa. Dạy vẽ theo kiểu truyền nghề. Học không đến nơi đến chốn. Phong cách “Hiện
thực XHCN” kiểu Stalin chiếm vị trí độc tôn. Các trường phái nghệ thuật
khác như “pop-art”, “siêu thực”, “trừu tượng”, v.v. thậm chí đến “ấn tượng” bị
xem là bệnh hoạn. Tôi nghe nói có lần tòa Đại sứ Pháp ở Hà Nội đã rất bất bình
khi nhiều sách báo mỹ thuật họ tặng trường mỹ thuật Yết Kiêu (mà tiền thân là
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do họa sĩ theo trường phái ấn tượng Pháp
Victor Tardieu sáng lập năm 1925) đã bị nhà trường giấu đi không cho sinh viên
xem vì sợ sinh viên mắc dịch văn hóa tư sản. Nhiều họa sĩ vào
hàng “họa sư” hẳn hoi hiểu rất lơ mơ về kỹ thuật vẽ sơn dầu, nói chi đến sinh
viên đại học mỹ thuật. Có lần tôi hỏi một “danh họa”
xem ông ấy chuẩn bị toile vẽ như thế nào. Câu trả lời
mà tôi nhận được là chỉ cần quét lên vải bạt (canvas bằng cotton - loại “toile”
thứ cấp cho sơn dầu), hoặc lên bìa carton bệnh viện 1 – 2 lớp sơn trắng là vẽ
được (!) Ông đã không hề “bịp” tôi vì thực sự ông đã chuẩn bị toile như
vậỵ Nhiều bức tranh của ông đã bị nứt hỏng chỉ vài tháng sau khi vẽ một phần
cũng là do toile được chuẩn bị tồi. Trong khi đó có thể tìm thấy sách về kỹ thuật
vẽ sơn dầu trong thư viện ở Hà Nội. Có
điều tất cả các sách đó đều bằng tiếng ngoại quốc (Anh, Pháp, Nga, Đức, v.v.).
Trừ một số ít người, họa sĩ Việt Nam nói chung
rất yếu ngoại ngữ. Điều này là trở ngại lớn trong việc phổ biến
nghệ thuật Việt Nam ra nước
ngoài.
Người ngoại quốc, trừ khi “trôi chảy tiếng Việt gần như tiếng
mẹ đẻ” [5] như cô Taylor, phần
nhiều nói chuyện với các họa sĩ Việt Nam thông
qua phiên dịch. Sự có mặt của người phiên dịch Việt Nam hạn chế
rất nhiều sự cởi mở của thông tin. Phiên dịch kém chỉ
là một nguyên nhân. Ai dám nói thẳng ý nghĩ của mình
cho một người có thể là của công an? [6] Ngay cả trong thời đại của internet hôm nay,
khi giao lưu với quốc tế đã có phần “dễ thở” hơn, hỏi có bao nhiêu họa sĩ có thể
surf the internet và đọc các thông tin, chuyên khảo mỹ thuật viết bằng Anh ngữ
tràn ngập trên đó. Có bao nhiêu nhà văn, họa sĩ, nhà phê bình, nghiên cứu văn học
nghệ thuật từ Việt Nam khi ra nước ngoài có thể thuyết trình lưu loát, tranh luận
trôi chảy bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp?
Người Việt là người thực dụng. Vì thế họ thà “ngậm
miệng ăn tiền” hơn là làm Don Quichotte. Cũng vì tính thực dụng đó, nên vào thời kinh tế thị trường nhiều họa
sĩ lập tức trở thành tiểu thương. Họ vẽ tranh để bán.
Thực ra họ chưa bao giờ vẽ tranh không phải để bán. Thời
bao cấp họ nhận tiền sáng tác và vẽ theo yêu cầu của
những người cấp tiền cho họ (gọi là kinh phí). Bây giờ họ vẽ
để bán cho du khách. Về điều này thì quan sát của cô Taylor hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, thử hỏi có ai trên thế gian này vẽ tranh không phải để
bán? Lenonardo Da Vinci ư? Michelangelo
ư? Picasso ư? Họa sĩ chuyên
nghiệp chẳng phải là những người có thể sống bằng nghề vẽ đó sao? Còn gì hạnh phúc hơn là kiếm sống được bằng chính nghề nghiệp của
mình?
Vấn đề ở đây là liệu anh có thể trở thành “lớn” trong khi vẽ
tranh để bán không?
Trước hết cần thỏa thuận với nhau cho rõ thế nào là “một họa
sĩ lớn”. Có tên trong Venice Biennale có phải là lớn
rồi không? Có tranh bán vài chục ngàn, vài trăm ngàn, thậm chí vài triệu
Mỹ kim tại các nhà đấu giá Sotheby’s hay Christie’s có
phải là lớn rồi không? Liệu sau 50 – 100 năm nữa có bao nhiêu người còn nhớ đến
Damien Hirst hay Takashi Murakami? Có bao nhiêu người ở Nhật coi Takashi Murakami
là họa sĩ lớn và bao nhiêu người coi anh ta chỉ là một tay
làm thương mại gặp thời? Một họa sĩ rất thành công khi còn sống
(tranh bán chạy, tên tuổi nổi như cồn không chỉ trong nước mà còn trên trường
quốc tế, v.v.) có phải là một họa sĩ lớn không? Vấn đề
ở đây là cái khái niệm “lớn” mà cô Taylor nêu ra
hết sức mơ hồ.
Tôi cho rằng câu hỏi sâu xa nhất không phải là: “Vì sao Việt Nam chưa có họa sĩ lớn?”. Câu hỏi đó có lẽ chỉ
thích hợp cho các đề tài luận văn cử nhân, thạc sĩ, hay tiến sĩ về lịch sử mỹ
thuật. Nó thực chẳng giúp ích gì cho chính các họa sĩ cũng
như nền hội họa Việt Nam. Theo tôi câu hỏi: “Vì
sao vẽ?” mới là câu hỏi sâu xa nhất.
Ba trong số mười đặc điểm của người Việt Nam mà Viện Nghiên cứu xã hội
Mỹ có lần đưa ra là:
3.
Khéo léo song không duy trì đến cùng. Ít quan tâm đến sự
hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm.
4.
Vừa thực tế, vừa mơ mộng song lại không có ý thức nâng lên
thành lý luận.
5.
Ham học hỏi, khả năng tiếp thu
nhanh song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không có hệ thống, mất
cơ bản. Ngoài ra học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn
lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít khi
vì chí khí đam mê).
Nếu những nhận xét trên
là đúng, thì giải pháp để có các họa sĩ lớn, hay nói chung
là các nhà sáng tạo lớn, ở Việt Nam có thể trở nên rõ ràng
hơn. Chỉ cần khắc phục các nhược điểm trên (phần sau chữ
“song” nêu trên). Nhưng làm được điều đó không phải
chuyện một sớm một chiều. Họa sĩ Việt Nam cần và phải được thường xuyên
giao lưu với cộng đồng mỹ thuật quốc tế, phải học được cách tư duy logic, có hệ
thống, đưa sản phẩm đến sự hoàn hảo cao nhất có thể, đặt niềm say mê sáng tạo
lên trên tất cả mọi cám dỗ đời thường, để đạt được cái mức giống như chuyện một
người gốc châu Á sống ở Mỹ mà tôi từng được nghe. Người này, khi được một người
Mỹ gốc châu Âu khen là nói tiếng Anh giỏi, đã trả lời bằng một thứ tiếng Anh rất
chuẩn xác: “Your English is very good too!” (Tiếng
Anh của ông cũng rất giỏi). Chỉ có đến mức đó thì ta mới mong những
người Âu - Mỹ từ bỏ cái thói hợm hĩnh, vây vo
(snobbism) của mình khi ra cái vẻ hạ cố nhìn xuống nền hội họa Việt Nam. Tôi muốn nói, để cho
phương Tây công nhận nền hội họa của Việt Nam, hội họa Việt Nam phải có những đại
diện xuất sắc bằng 3 – 5, thậm chí bằng 10 lần các đồng nghiệp phương Tây của
mình.
Nhưng ngay cả đến khi đó, xin đừng bao giờ quên câu nói của Kipling [7] :
“Oh, East is East, West is West
And never the twain shall meet.”
(Ôi, Đông là Đông, Tây là Tây
Và sẽ không bao giờ hai phương gặp nhau).
(Viết xong ngày 6 tháng 9 năm 2005 tại Tokyo)
© 2005 talawas
[1]Xem tranh của Nguyễn Đình Đăng trên internet tại http://ribf.riken.go.jp/~dang/page1.html
[2]Edgar
Degas (1834 – 1917) - hoạ sĩ Pháp, có biệt tài vẽ các hình người đang chuyển động.
Tuy tham gia nhóm họa sĩ ấn tượng Pháp, ông quan tâm đến khía
cạnh tâm lý trong chuyển động và biểu hiện, đến sự hài hòa của nét vẽ và tính
liên tục của đường viền.
[3]Nora
A. Taylor, “Vì sao Việt Nam chưa có họa sĩ lớn?” (bản
dịch của Phương Trinh), talawas 06.9. 2005 (Xem tại: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5300&rb=0202)
[4]Thời đại Minh Trị (còn gọi là Meiji Jidai)
(1868-1912) – giai đoạn 45 năm thống trị của Hoàng đế Nhật Meiji. Trong thời gian đó Nhật Bản bắt đầu hiện đại hóa để rồi lớn mạnh
lên thành cường quốc trên thế giới.
[5]Dịch
từ chữ “Vietnamese: Near Native Fluency” trong curriculum vitae của Dr.
Nora A. Taylor tại http://www.asu.edu/clas/globalstudies/faculty/taylor.html.
[6]Bất
cứ một ai, kể cả người ngoại quốc, sống ở Việt Nam đều hiểu điều đó. Năm
1993, khi tôi vừa quay về Hà Nội sau hơn một năm sống tại Đức và Italy, tôi có
ghé một quán café Italia do một người Ý làm chủ trên bờ Hồ Gươm. Bị hấp dẫn bởi
cách bài trí bên trong quán giống như ở Ý thực thụ, tôi xin phép ông chủ quán
chụp ảnh ông ta và quán ông ta. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Ý. Khi
tôi ngồi lên xe máy chuẩn bị ra về, ông ta chạy ra và
hỏi: “Sei della polizia vero?” (Anh có phải là người của công an không?)
[7]Rudyard
Kipling (1865-1936) – thi sĩ Anh, đoạt giải Nobel văn chương năm 1907.