Giác quan thứ sáu

 

“Theo đuổi chân lư và cái đẹp là lĩnh vực hoạt động

ở đó chúng ta được phép suốt đời là những đứa trẻ con”.

 

Albert Einstein

 (1879 – 1955)

 

 

1) Món ăn “siêu thực”

80 về trước, khi André Breton viết trong Hiến chương của chủ nghĩa siêu thực (1924) rằng sứ mệnh cao nhất của nghệ thuật siêu thực là ḥa hợp thế giới của hiện thực nội tâm với thế giới của hiện thực ngoại cảnh, ông đă khai sinh một quan điểm sáng tác mới. Trong hội họa các bức tranh siêu thực là thế giới “thực” của những ǵ diễn ra trong “vô thức” thường hiện ra trong các giấc mơ hay trong trí tưởng tượng của một trạng thái hoang tưởng. Vẽ lại giấc mơ của ḿnh, vẽ lại các h́nh ảnh do ḿnh tưởng tượng ra không lệ thuộc vào bất cứ quy ước, hạn chế nào của xă hội bên ngoài là một trong những đường lối sáng tác của các họa sỹ siêu thực.

 

Dưới góc nh́n của một họa sỹ siêu thực cực đoan, phong cách “hiện thực” (realism) hay “cực thực” (hyperrealism) có thể là thừa, quá lắm chỉ là công việc của nhà nhiếp ảnh, “trừu tượng” (abstractionism) trở thành vô nghĩa, “pop-art” là những tṛ chơi nhảm nhí, c̣n các biến tướng khác như “lập thể” (cubism), “dă thú" (fauvism), “sơ khai” (primitivism), “tối thiểu" (minimalism) v.v. chỉ là những tập toạng vụng về, đôi khi lố bịch…

 

Chân lư thường không được dễ dàng chấp nhận ngay bởi đám đông. Khi Albert Einstein sáng tạo ra thuyết tương đối hẹp (special theory of relativity) vào năm 1905 nghe đồn là trên toàn thế giới chỉ có non một tá các nhà bác học hiểu được lư thuyết này. T́nh thế gay cấn tới mức mà mà hội đồng Nobel, tuy đă linh cảm ông là thiên tài, cũng phải mượn danh một công tŕnh khác là hiệu ứng quang điện của ông để trao giải Nobel cho ông vào năm 1921. Hội họa siêu thực chỉ thực sự hấp dẫn đám đông khi đại diện xuất sắc của trường phái này, đại danh họa Tây ban nha Salvador Dali (1904 – 1989), đă “mở mắt” cho công chúng thấy thế giới của các giấc mơ, của vô thức, có thể được phơi bày lồ lộ “hiện thực” đến mức đáng kinh ngạc như thế nào dưới nét bút cực “siêu" của ông. Một bức tranh siêu thực có thể vừa truyền tải được các cảm xúc, ư tưởng nghệ thuật cao siêu, lại vừa có thể hấp dẫn thị hiếu của đám đông bởi lối vẽ “siêu tinh tế” của hoạ sỹ. Điều này cũng tương tự như âm nhạc của Mozart vậy: những tiết tấu và giai điệu đẹp đẽ làm rung động tâm hồn của cả những người không am hiểu về âm nhạc.

 

Nói như thế có nghĩa là làm một hoạ sỹ siêu thực không phải dễ, v́ phải có cả hai phẩm chất: 1) trí tưởng tượng phong phú với nhiều ư tưởng hay và 2) kỹ thuật vẽ … “siêu" để muốn thể hiện cái ǵ th́ có thể vẽ ngay cái đó không khó khăn ǵ. Đại đa số công chúng có thể không cảm nhận được hết phẩm chất (1), nhưng họ sẽ không dửng dưng nếu có phẩm chất (2). Kỹ thuật vẽ tài t́nh sẽ làm ư tưởng bức tranh trở nên sống động.

 

 

 

Salvador Dali

Sáu sự xuất hiện của Lênin trên đàn đại duơng cầm (1931)

 

Do tính đa phương diện mang nhiều ẩn dụ của nó, lại liên quan nhiều với phân tâm học của Sigmund Freud (1856-1939), nghệ thuật siêu thực từng bị bài xích trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” ở các nước thuộc phe xă hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt là ở Liên Xô. Tại đây, những người “kiểm duyệt” văn hóa, đa phần vô học về mỹ thuật, lại không chịu t́m hiểu đến nơi đến chốn, đă căn cứ vào một tác phẩm của Dali tên là “Sáu sự xuất hiện của Lênin trên đàn đại dương cầm  để chụp cho đại danh họa cái mũ “chống cộng”, và từ đó bác bỏ tất cả những ǵ liên quan đến hội họa siêu thực. Chỉ đến khi Mikhail Gorbachev khởi xướng “cải tổ”, vào khoảng năm 1985 một nhà báo Liên Xô đă sang tận Tây Ban Nha phỏng vấn Dali. Khi được hỏi là nghe đồn ông ghét nước Nga, đại danh họa nói: “Tôi ghét nước Nga thế nào được khi vợ tôi là người Nga!”. Ông c̣n bày tỏ sự ngưỡng mộ của ḿnh với một dân tộc đă từng cứu nhân loại khỏi họa phát-xít. Cuộc phỏng vấn đó đă “phục hồi nhân phẩm” cho Dali trong những bộ óc hẹp ḥi của các ông quan liêu xô-viết. Hội họa siêu thực được chính thức chấp nhận tại Liên Xô. Hai năm trước khi Liên Xô tan ră, năm 1989, sau khi Dali đă qua đời, một cuộc triển lăm lớn đầu tiên của ông đă được tổ chức tại Bảo tàng Mỹ thuật Pushkin tại Maxcơva.

 

2) Khẩu vị “Phù Tang”

Nhật bản là một nước có nền dân chủ thực sự từ sau Đại chiến thứ Hai nhờ vào Hiến pháp năm 1946 của Nhật do người Mỹ viết ra. V́ thế ở đây không có những thứ kiểm duyệt thô bạo, những cấm kỵ ngớ ngẩn như từng gặp phải ở các nước XHCN cũ và hiện vẫn c̣n đang diễn ra ở một số nơi trên thế giới. Tuy nhiên, một thứ hội họa như hội họa siêu thực vẫn không dễ ǵ được “tiêu hóa” nhanh ở các xă hội Á Đông - nơi truyền thống Khổng giáo và Phật giáo đă tạo cho người ta thói quen phục tùng các ước lệ cứng nhắc, cam chịu đối với các đấng bề trên, nơi thế giới nội tâm của tự do cá nhân thường ít khi được bộc lộ công khai ra trước công chúng, đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến đời sống t́nh dục, nơi nền dân chủ ra đời chậm hơn ở Tây Âu vài trăm năm.

 

Hội họa phương Tây được du nhập vào Nhật bản chỉ từ thế kỷ 19, sau khi hoàng đế  Minh Trị lên ngôi (1868). Tuy vậy, các galleries tranh ở Nhật chỉ bắt đầu xuất hiện sau Đại chiến thế giới thứ Hai, và chỉ thực sự phát triển khoảng 40 năm về trước, sau Thế vận hội Olympic Tokyo 1964. Nền kinh tế “bong bóng” những năm 80 của Nhật cộng với lễ giáo phong kiến và mặc cảm Á Đông có thể là một trong những lư do khiến người Nhật thích xài hàng “hiệu xịn” (brand names), thích dựa vào những giá trị đă được tôn vinh, hơn là phẩm chất thích mạo hiểm, phiêu lưu, tự tin vào chính ḿnh. Chính v́ vậy mà ở Nhật các nhà sưu tầm tranh phần lớn chỉ chú trọng đầu tư vào các tên tuổi đă nổi danh, được bảo đảm bởi các galleries danh tiếng, mặc dù giá các bức tranh này thường bị thổi phồng, và không ít nhà sưu tầm đă bị “lỗ” với lối “đầu tư" như vậy. Số người mua tranh dựa trên sở thích của riêng ḿnh gần đây có tăng lên nhưng vẫn c̣n rất ít. Điều đó cũng giải thích v́ sao ở Nhật người ta hầu như không sưu tầm tranh trực tiếp từ họa sỹ mà thường thông qua các galleries. Riêng ở khu Ginza của Tokyo đă có khoảng 450 galleries mỹ thuật. Sau khi nền kinh tế “bong bóng" lâm vào khủng hoảng, việc kinh doanh của các galleries trở nên khó khăn. Một số galleries lớn như Nichido phải đóng cửa bớt các chi nhánh ở các thành phố.

 

3) Gallery Nike

Trong bối cảnh đó giữ một gallery chuyên về hội họa siêu thực như gallery Nike đ̣i hỏi một niềm say mê và tinh thần gần như …“dũng cảm”. Chủ nhân của gallery – bà Tomoko Arai – nguyên là một họa sỹ. Cuộc sống đắt đỏ ở Tokyo thật khắc nghiệt đối với những người rắp tâm kiếm sống như một họa sỹ chuyên nghiệp. Ở đây tôi xin tạm dựa vào 4 tiêu chí bên dưới, từng được một số nơi sử dụng để phân biệt giữa “chuyên nghiệp” và “nghiệp dư”. Một họa sỹ có thể được gọi là “chuyên nghiệp” nếu thỏa măn ít nhất 2 trong 3 tiêu chí cuối trong 4 tiêu chí sau đây:

 

1) kiếm sống được bằng hội họa; 

2) học vấn về hội họa (học ở trường mỹ thuật, học từ các họa sỹ, hay tự học);

3) triển lăm liên tục tại các galleries, bảo tàng, các triển lăm được mời và được hoạch định trước;

4) đoạt giải thưởng tại các triển lăm nói trên.

 

Mong quư bạn đọc hiểu cho rằng các tiêu chí này rất tương đối, và sẽ ngô nghê nếu hiểu chúng một cách máy móc. Theo ư kiến của cá nhân tôi th́ sự phân biệt này có lẽ chỉ hợp cho những người cố chấp. Thực sự chỉ có hai loại tranh “tranh đẹp” và “tranh xấu”. Về mặt thẩm mỹ th́ ai vẽ ra chúng nói chung không quan trọng. Tuy nhiên trong một số trường hợp, như trường hợp đang nói đến ở đây, các tiêu chí trên cũng đôi khi có ích. Thật vậy, trong số 300 ngàn người tự coi ḿnh là họa sỹ ở Nhật số người đáp ứng được tiêu chí (1) không nhiều. Phần lớn phải có một nghề khác để sinh sống, hoặc sống dựa vào thu nhập của chồng. Bà Arai là một phụ nữ độc thân. Cuộc sống như một hoạ sỹ của bà đă giúp bà thấy rằng họa sỹ cần một người trung gian làm cầu nối họ với công chúng. Bà thấy được vai tṛ trung gian này của các galleries. V́ thế năm 1997 bà mở gallery lấy tên là “Nike” có biểu tượng là nữ thần “Chiến thắng” của thần thoại Hy-lạp. Đặt tại khu Ginza gần nhà hát Kabukiza nổi tiếng, gallery Nike chuyên tổ chức các triển lăm thiên về hội họa siêu thực, với các bức tranh vẽ với kỹ thuật “tinh vi” mà bà Arai gọi tóm là “sur” (siêu). Tiền thuê gallery ở khu Ginza thường khoảng 300 USD mỗi ngày. Ngoài ra nếu gallery giúp họa sỹ bán được tranh, gallery c̣n được hưởng khoảng 30 – 50 % tiền tranh bán được. Các bạn họa sỹ Nhật của tôi năm nào cũng làm vài triển lăm nhóm và/hoặc một triển lăm cá nhân tại gallery. Lịch triển lăm của galleries ở khu Ginza thường kín trưc 1 – 2 năm. V́ vậy gallery Nike đă giúp bà Arai giải quyết hai vấn nạn của ḿnh: kiếm sống và làm cầu nối giữa họa sỹ và công chúng.

 

 

Gallery Nike

(tầng 2, nơi có treo tấm biển màu vàng)

 

Tôi gặp bà Arai lần đầu tiên tại buổi khai mạc triển lăm Showa lần thứ 39 (tháng 1 năm 2004) tại gallery Nichido, mà tôi là một trong số 31 họa sỹ được mời dự triển lăm. Buổi khai mạc diễn ra long trọng với sự xuất hiện của bà Chieko Hasegawa, chủ gallery Nichido – một phụ nữ nổi danh nhan sắc một thời, vợ của ông Hasegawa - một nhà tư bản của Nhật. Anh bạn họa sỹ người Nhật của tôi giới thiệu tôi với một phụ nữ thấp béo, tóc nhuộm hung đỏ, nói năng sô bồ. Bà ta chỉ mấy bức tranh của tôi và nói rằng gallery của bà rất thích treo các bức tranh kiểu này. Người phụ nữ đó là bà Arai.

 

4) Triển lăm “Giác quan thứ sáu”

Sau đó ít lâu tôi nhận được giấy mời tham dự triển lăm nhóm 6 người tại gallery Nike. Sáu người chúng tôi đă từng biết nhau qua các tác phẩm của ḿnh tại triển lăm hàng năm của hội mỹ thuật “Chủ thể” – thành lập vào năm 1964, tới nay có 136 hội viên. Thông thường sau khi đă đoạt giải “Giai tác tác gia” (Tác giả có tác phẩm đẹp) 3 lần của hội này (tức cần khoảng 10 đến 15 năm tham dự liên tục triển lăm hàng năm) th́ bạn có thể trở thành hội viên của hội. Mỗi lần tham dự triển lăm “Chủ thể” họa sỹ không phải là hội viên phải nộp 80 USD cho bức tranh thứ nhất, và khoảng 20 USD cho mỗi bức tranh tiếp theo, nếu gửi trên một bức tranh. Mỗi người được gửi không quá 6 bức tranh. Tuy nhiên, nhiều lắm chỉ có hai bức được chọn treo nếu kích thước tổng cộng không vượt quá 2.0 x 2.6 m. Nếu tranh được duyệt treo th́ phải nộp thêm khoảng 80 USD nữa. Các hội viên không phải nộp tiền khi gửi tranh, và tranh cũng không cần phải duyệt, nhưng phải đóng hội phí mỗi người khoảng 500 USD hàng năm. Trong nhóm sáu người chúng tôi triển lăm tại gallery Nike lần này, năm họa sỹ Nhật bản đều là hội viên hội “Chủ thể”. Chúng tôi sống ở các thành phố khác nhau: Kanako Enomoto là dân Kanagawa; Nakako Nakagawa ở Yokohama;Yusuke Okamoto ở Kyoto, Michihiro Hatake và tôi sống ở Saitama – cạnh Tokyo; c̣n Takeshi Kadoya từ Hokkaido xa xôi đến. Chàng T. Kadoya này c̣n là một tấm gương lao động đáng khâm phục. Nh́n những bức tranh cỡ F130 (1.62 x 1.94 m) của anh tham gia đều đặn các triển lăm hàng năm của hội mỹ thuật “Chủ thể”, ít người biết rằng đó là một thanh niên trẻ tuổi đă bị liệt cả hai chân, phải ngồi xe lăn. Tuy khác nhau về địa phương thậm chí về dân tộc, chúng tôi có chung niềm hứng thú biểu hiện thế giới nội tâm, thế giới của những giấc mơ, của trí tưởng tuợng, của những huyền bí trong vô thức trong các tác phẩm của ḿnh. Enomoto buồn buồn kể về thế giới cô đơn của một tuổi thơ đă đi qua, sự vơ của con người trước thiên nhiên. Nakagawa bị lôi cuốn bởi sự kỳ bí của lẽ sinh - tử. Kadoya lại say sưa với các màu sắc và tạo h́nh mang hơi hướng của châu Âu trung cổ với những hiệp sỹ mặc giáp trụ trong một ḥa sắc lạnh. Okamoto bị hấp dẫn bởi thế giới tâm linh của Niết bàn với các ṭa sen, khói hương và phụ nữ. C̣n tôi thích kết hợp văn hóa của phương Đông và phương Tây trong một thế giới của sự huyền bí với những cảm giác khác lạ. Chính v́ thế mà triển lăm này được đặt tên là “Giác quan thứ sáu” để nói về khả năng biểu hiện bằng hội họa những cảm nhận về thế giới của vô thức, ngoài năm giác quan thông thường là thị giác (nh́n), thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ) và vị giác (nếm).

 

              

 

Các họa sỹ tham gia “Giác quan thứ sáu”

Từ trái sang: ngồi: Y. Okamoto, T. Kadoya, Nguyễn Đ́nh Đăng

đứng: K. Enomoto, M. Hatake, N. Nakagawa

(ảnh chụp tại ngày khai mạc triển lăm 21/11/2004)

 

Triển lăm “Giác quan thứ sáu" khai mạc vào ngày 21 tháng 11 năm, kéo dài 8 ngày, đến hết ngày 28 tháng 11 với 30 bức tranh kích thước từ F3 (22 x 27.3 cm) đến F15 (53 x 65.2 cm) có giá niêm yết từ vài trăm đến vài ngàn USD một bức, tùy theo kích thước, kỹ thuật và sự tâm đắc của tác giả.

 

                 

 

Ảnh trái: Nguyễn Đ́nh Đăng, “Quá khứ thức giấc” (2004) - một trong các tác phẩm tham gia “Giác quan thứ sáu”

Ảnh phải: Các khách xem triển lăm

 

5) Họa sỹ vẽ tranh bằng tẩy                

Tranh đă treo lên tường. Khách đang vào xem. Các họa sỹ và bè bạn ngồi quanh bàn nước đặt ngay trong gallery. Mấy chai vang Pháp hảo hạng được mở nút. Đồ nhắm được bà Arai bày ra bàn. Rượu vào, lời ra. Chuyện tṛ nở như ngô rang. Bà Arai giới thiệu tôi với một họa sỹ Nhật tên là Norio Shinoda. Tôi đă từng xem tranh của ông triển lăm tại gallery Nike trước đây. Các bức tranh với các chi tiết như gân lá, nhụy hoa, các con sâu ḅ trên cọng cây khô v.v. được vẽ rất chính xác và vô cùng tinh xảo. Thoạt đầu tôi tưởng đó là tranh đồ hoạ (như khắc gỗ, in kim loại, in thạch bản, v.v.). Hóa ra tất cả được vẽ chỉ bằng bút ch́ và tẩy! Đầu tiên ông tô màu nền lên giấy cứng, để khô. Sau đó ông tô đen tất cả bằng bút ch́ mềm 9B. Cuối cùng ông dùng tẩy vót nhọn như bút ch́ và vẽ lên nền đen đó. Mỗi một nét vẽ lại tẩy đi một lớp màu đen và để lộ nền màu ở dưới ra. Cứ như thế ông vẽ toàn bộ bức tranh. Một bức tranh kích thước F10 (45.5 x 53 cm) ông vẽ mất khoảng 4 tháng trời. Lối vẽ này và chất lượng kỳ lạ của các bức tranh là điểm đặc biệt nhất trong sáng tạo của ông ta. Điều thú vị tiếp theo là người đàn ông ngoài 50 tuổi ấy chưa từng một lần ra ngoại quốc. Mọi thông tin về nghệ thuật thế giới ông biết được chỉ thông qua sách báo phim ảnh và các triển lăm tại Nhật. Ông than phiền là các bảo tàng của Nhật thường chỉ thuê về các tranh của các danh họa đă chết, trong khi ông rất muốn được nh́n nguyên bản tranh của các đồng nghiệp hiện đang sống tại các nước xem họ vẽ vời như thế nào. Khi được hỏi nếu bây giờ xuất dương th́ ông thích đi nước nào trước tiên. Ông trả lời: “Nước Đức, để được tận mắt nh́n các tranh khắc của Durer [1].”

 

 

Một tác phẩm của họa sỹ N. Shinoda

 

Câu chuyện của chúng tôi chuyển sang đề tài bản sắc dân tộc. Ông nói: “Ở Nhật cũng có những người luôn khăng khăng là phải giữ ǵn bản sắc dân tộc, nhưng họ hiểu bản sắc khá hẹp ḥi và thiển cận. Họ cho là phải bám lấy truyền thống, khai thác truyền thống, với các áo dài kimono, phong cảnh núi Fuji, hay các motives dân gian. Tôi nghĩ rằng giá trị đích thực bao giờ cũng có tính toàn cầu, chứa đựng những giá trị chung của nhân loại. Nghệ sỹ phải phấn đấu đạt được mức toàn cầu, ngang tầm quốc tế trước đă, rồi từ đó mới có thể tôn vinh được bản sắc của nơi xuất xứ của ḿnh, v́ chỉ khi đó thế giới mới hiểu anh và thực sự quan tâm đến anh. Nếu không thứ anh làm ra quá lắm chỉ là một của lạ mà thôi!” Tôi rất tâm đắc với ông về điểm này. Theo tôi, nghệ sỹ piano Đặng Thái Sơn đă rất thành công v́: 1) anh đạt được tŕnh độ danh cầm quốc tế về thứ nhạc cụ và âm nhạc toàn cầu là piano và nhạc cổ điển mà tất cả các nước đều ngưỡng mộ, 2) từ đây anh đă chứng tỏ bản sắc Việt trong cách tŕnh bày Chopin của anh. Cái bản sắc Việt đó đối với anh không có ǵ khó khăn, bởi v́ một khi bạn đă sinh ra và lớn lên ở Việt Nam th́ sau này dù số phận có xô đẩy bạn đi bất cứ nơi đâu, ăn thứ đồ ăn ǵ, mặc thứ quần áo ǵ, chứa trong đầu thứ tư tưởng hay văn hóa ǵ, thậm chí nhập quốc tịch khác đi nữa, bạn vẫn măi măi là người Việt Nam. Không ai và không có cái ǵ có thể tước đoạt đi cái bản chất tự nhiên trời cho đó của bạn. Những tâm lư lo “mất gốc”, “đánh mất bản sắc” v.v. mà một số người hay thổi phồng, thường nhuốm màu sắc cực đoan, không hiếm khi được đưa ra như cái cớ để bóp chết hay chí ít cũng để hù dọa những ǵ mà những người đó cảm thấy “chướng tai gai mắt”. Người Nhật hiện đại chỉ mặc kimono trong các ngày lễ. Họ ở nhà kiến trúc kiểu Tây, xây những thành phố, đường xá mà đến các nước tiên tiến nhất cuả châu Âu và Hoa kỳ cũng phải lác mắt, chế tạo ra máy ảnh kỹ thuật số, video camera, TV màn h́nh phẳng, xe hơi mà cả thế giới hiện nay ưa chuộng. Các thiếu nữ Nhật mặc váy ngắn đến … không thể ngắn hơn được nữa, áo hở rốn, nhuộm tóc, nghe nhạc rap, nhảy hip-hop, pha nhiều từ tiếng Anh đă được Nhật hoá như “pasocom” (personal computer), “chô beri gu" (“siêu” very good), v.v. Có phải v́ thế mà họ đánh mất đi bản sắc dân tộc của họ? Ngược lại “made in Japan” là một trong những thứ đă và đang tôn vinh nước Nhật hơn bao giờ hết !

 

Tôi nói với ông Shinoda: “Trước khi sang Đức, xin mời ông đến Việt Nam làm triển lăm, vừa gần hơn, lại rẻ tiền hơn. Hai giờ đồng hồ lệch nhau không đủ để làm ông mất ngủ. Các đồng nghiệp họa sỹ Việt Nam chắc sẽ rất thích thú xem các bức họa của ông v́ ở Việt Nam, theo hiểu biết của tôi, xưa nay chưa có ai vẽ như thế này cả!” Ông ta cười như để thay cho câu trả lời: “Ngay cả ở Nhật cũng chỉ có mỗi ḿnh tôi vẽ như vậy.” Người Nhật vốn rất khiêm tốn.

 

6) Các họa sỹ thương mại

Bạn tôi, họa sỹ Lê Huy Tiếp, khi được hỏi nghĩ ǵ về một số họa sỹ bán được tranh rất chạy ở Hà Nội, đă trả lời như sau: “Tôi kính trọng những người làm ra tiền thậm chí nhiều tiền bằng sức lao động của ḿnh. Nhưng mong các vị hiểu cho rằng bán được nhiều tranh không đồng nghĩa với vẽ đẹp, và vẽ đẹp không có nghĩa là dễ bán được tranh.

 

Tokyo giống Hà Nội ở chỗ cũng có rất nhiều galleries thương mại. Các galleries này thường tập trung ở những phố xịn nhất của khu Ginza, có đội ngũ nhân viên trẻ, ăn mặc đồng phục rất lịch lăm. Giá tranh ở các galleries thương mại này cao “rùng ḿnh”, v́ galleries “ăn” tới 70% tiền tranh bán được. Các bức tranh xem rồi cũng thấy “rùng ḿnh” luôn, v́ hoặc là chúng rất “Bờ Hồ", hoặc được vẽ với kỹ thuật của một người thợ truyền ảnh, hoặc là theo các motives để thỏa măn các kỷ niệm du lịch (các phong cảnh ở Venezia, Madrid, Paris, núi Fuji, v.v.). Một số họa sỹ trẻ tự nguyện phung phí tài năng của ḿnh để thỏa măn thị hiếu của tầng lớp trưởng giả “lắm tiền ít thẩm mỹ”, cho ra đời các chân dung “hoành tráng” vẽ các thiếu phụ Nhật trong trang phục … của các quư tộc Pháp thời Dominique Ingres [2] đứng cạnh các bộ ghế salon kiểu … Victorian.

 

Tôi và họa sỹ Hatake đă dạo một ṿng xem vài galleries như vậy. Sau khi xem một gallery nổi tiếng đang triển lăm tranh của một họa sỹ trẻ vẽ như …ảnh kiểu đó, Hatake hỏi cảm nghĩ của tôi. Tôi nói tôi thấy những bức tranh đó không khác “truyền ảnh” là mấy. Tôi chỉ thấy kết quả lao động của bàn tay, chứ không thấy con tim và khối óc đâu. Đấy là “thuật” nhưng không phải “mỹ thuật”. Trở về gallery Nike, một số khách khứa cũng là họa sỹ hỏi chúng tôi vừa đi xem những ǵ và cảm tưởng của chúng tôi về triển lăm tại gallery nói trên, Hatake nói: “Anh Đăng nói rằng không thể gọi đó là “mỹ thuật”!” Bà Arai liền phụ họa: “Chính xác! Nhật bản không thiếu các technicians (kỹ thuật viên) kể cả trong hội họa. Tôi không nh́n vào tranh họ mà chỉ xem giá tranh của họ có bao nhiêu số không đằng sau!”

 

7) Vị khách đặc biệt

Tháng 10 năm 2004, khi về Việt Nam dự hội nghị vật lư châu Á – Thái B́nh Dương lần thứ 9 tại Hà Nội, tôi có dịp gặp lại người bạn cũ sau 12 năm trời xa cách – nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tuy xa mặt nhưng không cách ḷng: Tôi vẫn theo dơi những tác phẩm mới của anh công bố trên internet, và những sóng gió xung quanh con thuyền đơn độc của anh trên cái ao văn chương vốn ít tĩnh lặng của Việt Nam. Truyện của anh đă được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Cách đây ít lâu nhà xuất bản Curbstone Press (Hoa kỳ) t́m thấy trang nhà của tôi trên internet trong đó có bức chân dung Nguyễn Huy Thiệp tôi vẽ năm 1990 và bài viết của tôi về cuộc gặp đầu tiên với anh Thiệp, trong đó tôi trích dẫn một số truyện như “Tướng về hưu", “Vàng lửa”, “Phẩm tiết” đă được các dịch giả của Curbstone dịch ra Anh ngữ. Thế là để tỏ ḷng biết ơn, họ đă gửi tặng tôi tuyển tập truyện ngắn mang tên “Crossing the river” (Sang sông) của anhThiệp mà họ mới xuất bản năm 2003. Lần này, anh Thiệp cho tôi biết truyện ngắn của anh cũng đă bắt đầu được dịch ra tiếng Nhật. Dịch giả là chị Kato Sakae.

 

Trở lại Tokyo, tôi gọi điện cho chị Kato. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại “Giác quan thứ sáu". Có lẽ, sau 20 lần sang Việt Nam, chị đă rất hiểu phong cách “làm việc” của người Việt. Bằng chứng là chị đến trễ hẹn 1 tiếng đồng hồ. Chị xin lỗi rất lịch sự bằng tiếng Việt: “Xin lỗi, tôi đă đến chậm một tiếng!” Trước mặt tôi là một phụ nữ cao, nghiêm nghị, với kiến thức khá tốt về tiếng Việt. Cách đây 34 năm về trước người phụ nữ Nhật đó đă từng nằm ra ngang đường ở tỉnh Kanagawa để ngăn chặn việc đưa xe tăng của Mỹ sang Việt Nam. Nay chị là một dịch giả nổi tiếng (thậm chí có thể là duy nhất?) của văn học Việt Nam ở Nhật. Chị dịch khá nhiều: Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Bảo Ninh, Lê Lựu, v.v. và gần đây Nguyễn Nhật Ánh. Chị c̣n dạy tiếng Việt ở ĐHTH Tokyo và một trường đại học khác tại tỉnh Saitama. Chồng chị cũng là một chuyên gia về Việt Nam phụ trách về ban Việt Nam tại đài NHK của Nhật. Chị cho biết, trước khi gặp tôi, chị đă đọc “lư lịch” của tôi trên internet và cảm thấy “hơi sợ". Chị nói: “Những người như anh hiếm lắm. Đó là tài sản của quốc gia.” Tôi cũng nói với chị rằng vợ chồng chị xứng đáng là “tài sản” của nước Nhật. Thế mới biết là nước Việt Nam ta không những có “rừng vàng, biển bạc, đất ph́ nhiêu", mà c̣n có rất nhiều thứ “tài sản” khác vung văi khắp năm châu bốn biển.

 

Chúng tôi nói chuyện xung quanh các biến đổi hiện nay ở Việt Nam. Hai người bạn Nhật khác là bà Arai chủ gallery và cô Shiga - một nghệ sỹ nhiếp ảnh siêu thực - tỏ ra rất hứng thú v́ từ trước đến giờ chỉ mới nghe nói chứ chưa đi Việt Nam bao giờ. Trên TV của Nhật thường có các chương tŕnh nói về Việt Nam nhưng phần lớn là về cái “bầu tủi thân” [3] của quá khứ hoặc về các thú vui du lịch như hotels, ăn uống. Thi thoảng có các chương tŕnh về một số làng nghề, lễ hội hay đời sống nghèo khổ của ở các vùng sâu vùng xa. Người Nhật được biết rất ít thông tin về đời sống văn học nghệ thuật của Việt Nam hiện nay.  V́ thế, cuối buổi nói chuyện, bà Arai đưa ra ư tưởng tổ chức triển lăm tranh của tôi (tất nhiên là tại gallery Nike) kết hợp với giới thiệu văn chương Việt Nam do chị Kato đă dịch ra tiếng Nhật. Tôi cũng đề nghị cô Shiga giúp quảng bá văn học Việt Nam trong một câu lạc bộ đọc sách ở Ginza mà cô là thành viên.

 

 

Từ trái sang: Dịch giả Kato, bà Arai - chủ gallery Nike, NS nhiếp ảnh Shiga

tại “Giác quan thứ sáu”

 

8) Thay lời kết

Chủ nhật trời nắng rực rỡ. Tôi chuẩn bị ra gallery sớm hơn thường lệ v́ hôm nay là ngày cuối cùng, khách thường đến đông hơn các ngày khác.

 

Vợ tôi nhắc:

-          Bố nhớ mang thêm cái áo len đi nhé. TV nói chiều nay sẽ trở gió đấy!

-          Lúc nào mẹ cũng lo cho bố thế! - tôi nói

-          Chứ c̣n ǵ nữa! Bố là tài sản của gia đ́nh mà.

 

Tôi chợt nhớ đến câu nói của Hippocrate [4]: “Ars longa, vita brevis” có nghĩa là “Nghệ thuật th́ dài, cuộc đời th́ ngắn”.

 

Nguyễn Đ́nh Đăng

Tokyo, 30/11/2004

 

____________

 

Chú giải:

 

[1] Albrecht Durer (1471 – 1528), họa sỹ đại nhất của nước Đức thời Phục hưng, nổi tiếng v́ những tranh đồ họa rất tinh xảo. Ông c̣n là một nhà lư thuyết về luật viễn cận và tỉ lệ người.

 

[2] Dominique Ingres (1780 – 1867), họa sỹ Pháp thuộc trường phái tân cổ điển (neo-classicism), nổi tiếng v́ các bức chân dung với các đường nét hoàn hảo theo lối vẽ hàn lâm nhưng lại chứa đầy cảm xúc.

 

[3] Mượn danh từ của bài “Cái tâm có lăi bằng ba cái tài” của Hà Nhân Văn L.L.H.

 

[4] Hippocrates (470   377 trước CN),  bác sỹ Hy lạp, được coi là ông tổ của y học.