Lời giới thiệu
Triển lăm “50 năm
hội họa cận đại Việt
Nhà nghiên cứu
lịch sử mỹ thuật Matthew Larking đă viết một
bài về triển lăm này đăng tại The
Trao đổi với Matthew Larking
Matthew
Larking
bên bức
“Chơi ô ăn quan” của Nguyễn Phan Chánh tại Tokyo
Station Gallery
NĐĐ:
Những người yêu mỹ thuật ở Việt
Nam hẳn muốn biết quan điểm của giới
phê b́nh quốc tế tới triển lăm hội
họa cận đại Việt Nam tại Tokyo Station
Gallery, và ông đă là người viết thẳng thắn
quan điểm của ḿnh với tư cách của một
nhà chuyên môn. Vậy làm thế nào mà ông biết về triển
lăm này?
ML:
Tôi biết đến triển lăm này chủ
yếu là do phần lớn các bài viết gần đây của
tôi có liên quan đến đến việc làm thế nào mà
các nước ở xa các phát triển chính của chủ
nghĩa Hiện đại, như Đông Âu, châu Á (Nhật
Bản), và bây giờ là Việt Nam, giải quyết những
vấn đề của chủ nghĩa Hiện đại
và ḥa hợp, hay có thể là định hướng theo một
cách nào đó, với thế giới của nghệ thuật
đương đại quốc tế. Ngay trước
khi triển lăm này khai mạc tại Tokyo, người phụ
trách chuyên mục của tôi tại The Japan Times đă đề
nghị tôi viết về đề tài này, đặc biệt
là v́ nghệ thuật Việt Nam đang ngày càng gây
được sự chú ư trên trường quốc tế.
NĐĐ:
“Tổng
quan về mỹ thuật Việt Nam trong thế kỷ 20”
của Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh thuộc Bộ
Văn hóa – Thông tin Việt Nam in tại vựng tập của
triển lăm này có viết: “Dưới
chế độ bù nh́n do đế quốc Mỹ giật
dây miền Nam Việt Nam lại một lần nữa bị
lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Xă hội đi theo
tư bản chủ nghĩa, v́ vậy nghệ thuật tạo
h́nh của miền Nam Việt Nam tràn ngập các thứ chủ
nghĩa hiện đại phương Tây nhằm thỏa
măn thị hiếu cá nhân và nhu cầu thị trường.
Do đó, không để lại dấu ấn nghệ thuật
lâu dài nào ngoại trừ vài tác phẩm của Nguyễn Gia
Trí”.[1]
Trong bài báo đăng tại “The Japan
Times” [2] ông viết: “Trong khi đó,
với việc thành lập của nhà nước Nam Việt
Nam vào năm 1949 tại miền Nam, được Hoa Kỳ
và Anh công nhận, các nghệ sỹ tại đây đă
đi theo một trường phái quốc tế mờ nhạt,
một phần do sự hiện diện của Mỹ,
nhưng c̣n là do tính đại chúng của nghệ thuật
Pháp vẫn đang tiếp tục. Ví dụ điển h́nh
là bức tranh “Người đàn bà” của Tạ Tỵ vẽ
năm 1950 theo phong cách Lập Thể. Niềm say mê các họa
sỹ phương Tây cuối cùng đă dẫn đến
sự thất sủng của ông giữa những người
thắng trận Bắc Việt sau ngày thống nhất, và
ông đă bị đưa vào trại cải tạo năm
1975, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc”.
Liệu đây có phải
đơn thuần là hai quan điểm đối lập
lên cùng một vấn đề không? Ông thấy
ǵ trong sự hiện diện của phần lớn họa
sỹ miền Bắc Việt
ML:
Đây là một câu hỏi
khó trả lời. Căn cứ bài tổng quan của Bộ
Văn hóa – Thông tin th́ rơ ràng đây là một triển lăm
điểm, và có vẻ như là một cuộc trưng bày
nghệ thuật vùng của miền Bắc Việt
Một trong những đặc
điểm của bức tranh “Người đàn bà” của
Tạ Tỵ là phong cách chủ nghĩa Lập thể rất
rơ, nhưng tất nhiên, đă đến quá muộn. Chủ
nghĩa Lập thể đă bắt đầu trước
khi trường Mỹ thuật Đông Dương
được thành lập năm 1925. Các phát triển quan
trọng nhất của hội họa Lập thể
đă kết thúc vào những năm 1912 – 1913. Nhưng tác phẩm
của Tạ Tỵ là một tác phẩm đáng chú ư v́ nó
đề cập tới loại hội họa không chỉ
là thách thức nhất lúc bấy giờ, mà c̣n là loại hội
họa cuối cùng đă bị trấn áp. Việc Tạ Tỵ
bị đi trại cải tạo càng làm sáng tỏ thêm
điểm này.
NĐĐ:
Ông có thể nói rơ thêm ư của
ông khi ông viết: “Một khi
nghệ thuật cúi ḿnh trước chính trị, nghệ sỹ
trở thành nạn nhân của sự tự vấn.”
ML:
Giải thích về điểm
này có lẽ phải hơi dài ḍng một chút. Phần lớn
mỹ thuật Việt
Trong bối cảnh đó,
tự vấn theo tinh thần của chủ nghĩa hiện
đại quốc tế có nghĩa là đề cập tới
vấn đề “vẽ là ǵ” – có nghĩa là có con mắt tự
phê b́nh lên toàn bộ quá tŕnh vẽ như việc phết
màu lên mặt vải và hoạ sỹ phải làm ǵ khi vẽ
như vậy. Trong khi đó, đối với hội họa
cận đại Việt Nam th́ tự vấn có vẻ
như là, thay v́ đề cập đến “vẽ là ǵ”,
anh lại bàn về “vẽ cái ǵ” – có nghĩa là vẽ cái mà
người ta bảo anh vẽ.
Vấn đề mấu chốt
ở đây nằm giữa sự “hấp thụ” và sự
“bằng ḷng” trên phương diện văn hóa/chính trị/xă
hội.
_______________
[1] Xem: “Vietnamese Fine Arts in the 20th
century – An overview”, Department of FineArt and Photography, the Ministry of
Culture and Information, Vietnam, in trong ”ベトナム近代絵画展50
years of Modern Vietnamese Paintings: 1925-75”, Exhibition catalogue (The
Sankei Shimbun, Tokyo, 2005), tr. 161 – 166.
[2] M. Larking, “
Việt
Nghệ thuật của chiến tranh
Matthew Larking
b́nh luận mỹ
thuật của The Japan Times
Nghiên cứu lịch sử cận đại
của Việt Nam, thật không có ǵ ngạc nhiên rằng
khoảng một phần ba số tranh trưng bày triển
lăm “50 năm hội họa cận đại Việt Nam:
1925 – 1975” tại Tokyo Station Gallery miêu tả chiến tranh và
những người lính mặc quân phục, hoặc là các
h́nh tượng tuyên truyền được tạo nên từ
những tàn tích của hội họa tạo h́nh. Ở
đây, nghệ thuật rất giống chiếc
gương phản chiếu những trải nghiệm và lịch
sử của quốc gia.
Trước khi chế
độ thuộc địa Pháp bắt đầu, Việt
Những h́nh ảnh như
vậy chẳng bao lâu sau đă nhường lối cho việc
khắc họa chiến tranh, khi tinh thần chống Pháp bắt
đầu bao trùm sinh hoạt văn hóa.
Thế là, từ ḷng yêu nước rất cụ thể bộc
lộ trong các tác phẩm đó, nghệ thuật của Việt
Nam đă đi theo đường lối Hiện Thực
Xă hội chủ nghĩa (XHCN) được Nhà nước
tài trợ, tŕnh bày ư thức hệ cộng sản cục bộ
được bắt rễ từ giữa thế kỷ
20.
Bị coi là “tư sản”, nghệ thuật
phương Tây bị cấm, và một cuộc chiến
tranh khác đă bùng phát - cuộc chiến tranh chống lại
sự “ô nhiễm văn hóa” từ phương Tây. Chỉ
đến khi ảnh hưởng cộng sản suy yếu
đi trong những năm đầu 1980 nghệ thuật
Việt Nam mới dần dần được giải
phóng và lại bắt đầu đi theo mạch chung của
nghệ thuật thế giới.
Những khởi đầu của nghệ
thuật cận đại Việt
Họa sỹ, nhà giáo và nhà nghiên cứu
châu Á Victor Tardieu là hiệu trưởng đầu tiên của
trường nàỵ Ông tới Việt
Nguyễn
Phan Chánh, “Chơi ô ăn quan” (lụa, 1931)
Như vậy truyền thống địa
phương đă được người Pháp tái tạo,
dần dần đă giúp sáng tạo nên một cá tính văn
hóa hiện đại của người Việt. Hội
họa sơn mài cũng đi theo con đường
đó, chủ yếu là nhờ những cố gắng của
Joseph Inguimberty, người đă đưa chất liệu
này vào chương tŕnh giảng dạy và học tập từ
năm 1927.
Các bức tranh của Inguimberty mang
hơi hướng của hội họa Ấn tượng,
và bức “Xưởng họa” vẽ năm 1933 của ông là
bức tranh duy nhất vẽ mẫu khỏa thân tại triển
lăm này – sau Cách mạng tháng Tám 1945 không có bức họa khỏa
thân nào được bày công khai cho đến tận
năm 1982. Trong bối cảnh
trào lưu đ̣i độc lập cho quốc gia và chủ
nghĩa xă hội diễn ra tại Việt Nam từ năm
1945 và sự hạn chế các đề tài nghệ thuật,
h́nh phụ nữ khỏa thân bị coi là một chủ
đề có tính buông thả, thậm chí mang ư nghĩa phá hoại.
Joseph
Inguimberty, “Xưởng vẽ” (sơn dầu, 1933)
Khoảng giữa thế kỷ 20, đi
theo đường lối khuyến khích độc lập
văn hóa, chính trị, kinh tế của Hồ Chí Minh, nghệ
thuật trong nước buộc phải phục vụ các
mục đích xă hội. Thế là các đề tài có cảm
hứng Pháp trước đây nay bị coi là giả tạo
tư sản.
Tuy nhiên, một dự án cần kíp
hơn đă ra đời đó là làm thế nào để
đưa các thông điệp chính trị vào nghệ thuật,
sao cho hội họa cũng có thể được sử
dụng để kích động ḷng yêu nước –
như đă xảy ra tại các nước cộng sản
khác.
Vào năm 1945, khi Hồ Chí Minh, được
Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, tuyên bố thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, đất
nước bị chia đôi theo kiểu chiến tranh lạnh.
Để đáp ứng đ̣i hỏi chính trị, nghệ
thuật tại miền Bắc đi theo đường lối
Hiện thực XHCN với các chủ đề quen thuộc
của nó là công nhân, nhà máy, và quân đội.
Trong khi đó, với việc thành lập
của nhà nước Nam Việt Nam vào năm 1949 tại miền
Nam, được Hoa Kỳ và Anh công nhận, các nghệ sỹ
tại đây đă đi theo một trường phái quốc
tế mờ nhạt, một phần do sự hiện diện
của Mỹ, nhưng c̣n là do tính đại chúng của
nghệ thuật Pháp vẫn đang tiếp tục. Ví dụ
điển h́nh là bức tranh “Người đàn bà” của
Tạ Tỵ vẽ năm 1950 theo phong cách Lập Thể.
Niềm say mê các họa sỹ phương Tây cuối cùng
đă dẫn đến sự thất sủng của ông
giữa những người thắng trận Bắc Việt
sau ngày thống nhất, và ông đă bị đưa vào trại
cải tạo năm 1975, sau khi chiến tranh Việt Nam kết
thúc.
Tạ
Tỵ, “Người đàn bà” (sơn dầu, 1950)
Trên phương diện hội họa
thuần tuư, có thể coi thế hệ họa sỹ đầu
tiên của trường Mỹ thuật Đông Dương
là thế hệ đă vẽ nên những bức tranh hay nhất.
C̣n như với các tác phẩm sau này, thật khó có một
đánh giá nào ngoài coi chúng như những ǵ đă bị tổn
hại bởi yêu cầu phục vụ chính trị và tuyên
truyền.
Hồi kết thúc của một thời
kỳ 50 năm được bày ở đây thậm chí
c̣n cung cấp cho người xem một số bức tranh
thực sự nhằm mục tiêu chính trị, như khi
Dương Viên vẽ hai chiếc phi cơ phản lực
Mig 21 và đặt cho bức họa năm 1980 đó một
cái tên lạc quan là “Niềm tin”.
Dương
Viên, “Niềm tin” (sơn mài, 1980)
Một khi nghệ thuật cúi ḿnh trước
chính trị, như một đặc tính, nghệ sỹ bị
cắt khỏi thế giới hội họa quốc tế,
trở thành nạn nhân của sự thiếu thuần khiết
của ḿnh, của sự tự vấn và các chủ đề
khiên cưỡng. Như vậy sự bất
đồng cơ bản giữa các nguyên tắc của chủ
nghĩa Hiện đại và Hiện thực XHCN tiếc
thay đă tạo nên cái cốt lơi của những năm
h́nh thành nền hội họa Việt
Tóm lại, cuộc triển
lăm này giống như một cuốn sách vỡ ḷng tốt
nhất mà tôi được biết về nguồn gốc
của sự nở rộ ngày nay của nghệ thuật
Việt
Người dịch:
Nguyễn Đ́nh Đăng
từ nguyên văn
tiếng Anh
“Vietnam: The Art of War”
by Mattew Larking (*)
______________
* Bản tiếng
Anh của The Japan Times cũng được VietnamArtBook.Com
đăng lại tại
http://www.vietnamartbooks.com/articles/article.html?id=1380