Đi
Tây
乬Đi Tây tức là đi
Tây.乭
Nhất Linh (1906 –
1963)
1.
Pháp乧
乬Douce
France! Cher
pays de mon enfance乧乭
(Ôi, nước Pháp dịu
hiền! Đất
nước thân yêu thời thơ ấu
của tôi)
trích từ bài
hát 乬Douce France乭
Charles Trenet (1913 – 2001)
Ai
đã từng học ở
Liên xô hẳn còn nhớ 乬Bài thơ về tấm
hộ
chiếu Xô Viết乭 của Vladimir
Mayakovsky. Ông
sáng tác bài thơ này sau chuyến
đi Praha – Berlin
– Paris năm
1929. Tác
giả cười nhạo các cảnh sát
cửa khẩu tại các nước tư
bản - những người luôn coi
tấm hộ chiếu của ông có thể
乬dễ gây nổ như một quả bom乭,
乬đầy gai nhọn như một
con nhím乭, và 乬nguy hiểm như một
lưỡi dao cạo乭. Đoạn kết của
bài thơ giúp ta
hình dung vẻ mặt đầy kiêu hãnh
của Mayakovsky khi đưa tấm hộ chiếu cho
họ :
Hãy nhìn
đi,
hãy ghen tị
đi,
ta là
công
dân
Liên bang Xô Viết
乬Chà! Tự hào
quá, hiên ngang quá!乭 - tôi từng nghĩ
như vậy khi đọc bài thơ
này lần đầu tiên. Tôi tự
nhủ bao giờ có dịp đi sang nước
tư bản tôi cũng sẽ nói
thầm trong tâm trí: 乬Hãy nhìn đi,
và hãy
ghen tị đi, ta là công dân nước
cộng hòa XHCN Việt
Nam乭. Tôi vốn rất tự
hào về giòng giống 乬con rồng
cháu tiên乭 của mình mà. Tuy
nhiên, nói thành tiếng thì tôi
không dám, vì
như thế nó có vẻ hơi 乧 bị
乬yết kiêu乭! Châm ngôn
Việt Nam ta chẳng đã có
câu 乬Một lần khiêm tốn bằng bốn
lần tự kiêu" đó
sao? Ngạn ngữ phương Tây cũng
từng dạy: 乬Khiêm tốn là sự xa hoa của
các bậc vĩ nhân乭. Rõ ràng
là khiêm tốn,
trong trường hợp nào đi nữa vẫn
hơn đứt tự kiêu, nhất là khi
ếch con nhảy ra khỏi
giếng đi nước ngoài, đặc
biệt là sang các nước mà
đời sống của người ta bằng
năm bằng mười nước mình. Hơn nữa nói ra, nhỡ họ
cáu lên không
cho vào nữa thì nguy.
Thế rồi cơ hội
đầu tiên sang một nước tư bản
cũng đã đến với tôi. Năm 1988
tôi làm thực tập sinh bậc 2 - tên
gọi cho những
người nghiên cứu sau tiến sỹ (TS)
thời bấy giờ - tại một viện
nghiên cứu hạt
nhân khá nổi tiếng quốc tế, ở
cách Maxcơva chừng 200 km. Nhiều nhà khoa
học từ
các nước tư bản phát triển
thỉnh thoảng sang đây thỉnh giảng,
dự hội thảo, hoặc
tham gia hợp tác nghiên cứu. Trong suốt 11
năm học và nghiên cứu tại
Đại học tổng
hợp quốc gia Maxcơva và viện này,
lẽ dĩ nhiên là tôi thường nghe
các thông tin
của đài phát thanh, báo chí
và truyền hình Xô Viết về
phương Tây. Bức tranh thật ảm đạm, có
phần dễ sợ. Phương Tây
được nhắc đến
như một xứ sở của bất công,
người bóc lột người, thất
nghiệp, trộm cướp, tham
nhũng, án mạng, đĩ điếm,
nghiện hút, thiên tai v.v. Tuy nhiên thời
đó đã bắt đầu
có người từ Liên Xô đi sang
các nước 乧 của thế giới bên
kia, tức các nước tư bản.
Một số là cán bộ nghiên cứu
của viện. Khi trở về họ
thường diện
những thứ mà ở Liên Xô nhiều
người hằng mơ ước như quần
jeans, áo blouson rất mốt,
giày kiểu thể thao của hãng Adidas.
Trong khi đó ở
thành phố tôi đang sống các cửa
hàng thực phẩm thường chỉ lèo
tèo vài hộp cá.
Những thứ bình thường như thịt,
bơ, pho mát, v.v. đều
vắng bóng. Muốn có phải
đáp tàu hơn 2 tiếng đi Maxcơva
xếp
hàng mua. Những chuyến
tàu như vậy được gọi là
乬tàu
lương thực乭. Chưa hết, lệnh
cấm uống rượu của tổng bí thư
Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachov
đã bước vào năm thứ 3:
Rằng hay thì thật là
hay,
Xem ra chỉ
thấy bánh tây
mưa phùn.
Tinh thần của người
Nga không có rượu vodka uống cũng
từa tựa như bánh mì ngấm
nước mưa vậy.
Giá một
chai vodka đang từ vài rup bỗng tăng
vọt lên vài chục rúp tại chợ
đen. Một số
sinh viên Việt Nam vốn 乬thông minh đã sẵn
khôn ngoan có thừa乭 lập tức nảy ra
sáng kiến
chưng cất rượu vodka
(tất nhiên là lậu) bằng nồi áp
suất
để bán. Chương trình TV vẫn
tiếp tục phê phán xã hội tiêu
thụ phương Tây, có điều
lúc này người ta đã không
gán cho nó cụm từ 乬tư bản thối
rữa乭 nữa (nguyên văn
tiếng Nga: 乬zag-nhi-va-yu-shii ka-pi-ta-lizm乭). Để chứng tỏ
tính glasnost (cởi mở), người ta tổ
chức cầu truyền hình giữa dân
chúng Maxcơva
và Seattle. Khi người Mỹ hỏi
người Nga có quan điểm thế nào
về sex, một nữ
khán giả Nga đã trả lời đanh
thép: 乬Chúng
tôi không có sex!乭.
Mùa hè năm
đó, ông Nguyễn - một nhà khoa
học
Việt kiều - từ Paris sang viện tôi làm. Thời bấy
giờ Việt kiều từ phương Tây sang
phương
Đông còn hiếm lắm, đâu có
được nườm nượp như bây
giờ. Tôi đã
nghe danh ông ta từ lâu qua các công
trình nghiên cứu của ông đăng
tại các tạp
chí vật lý của Hoa Kỳ và châu
Âu, cùng chuyên ngành tôi
làm. Tuy dáng
người thấp bé, nhưng với phong
cách rất ung dung, pha chút ngang tàng
của người
Nam Bộ, thái độ tự tin, trình
độ chuyên môn sâu rộng, và
đặc biệt là tiếng Anh
hơn đứt các đồng nghiệp Xô
Viết, ông đã gây một ấn
tượng mạnh không chỉ cho
riêng tôi mà còn cho nhiều đồng
nghiệp người Nga ở viện. Nếu tôi
điên hay tâm
thần chắc tôi đã thốt lên: 乬Hãy nhìn đi,
hãy ghen tị đi, ông ấy là
đồng bào của tôi, một người
Việt Nam!乭. Chúng tôi quen nhau rất nhanh.
Ông tỏ ý quan tâm tới một số
kết quả nghiên cứu của tôi và
muốn mời tôi sang viện của ông ở
Paris
để thuyết
trình về các kết quả này. Đối với tôi đây là
một điều bất ngờ.
Tôi cứ nghĩ nếu ông
có mời chắc sẽ mời một
đồng nghiệp người
Nga, chứ đâu đến lượt thứ
ngựa non háu đá như tôi.
Lúc đó tôi mới 29 tuổi,
đang chuẩn bị luận án tiến sỹ
khoa học (TSKH), đã đăng được
một số bài báo tại
các tạp chí chuyên ngành uy tín
của phương Tây và, trớ trêu thay,
cũng đã kịp
gây cho mình một số 乬kẻ
thù乭.
Một
thời gian ngắn sau khi ông Nguyễn về
Pháp, tôi nhận được thư
chính thức của ông mời tôi sang
viện của ông ở Paris trong
vòng một
tháng, thời gian xuất phát hoàn
toàn do tôi tự chọn. Lý do là
vì ông cũng như
tôi đều không thể đoán
trước được khi nào cả 3
nước cho phép tôi vào Pháp. Trước hết bộ đại học
Việt Nam có đồng ý cho
tôi đi không? Nếu có thì tôi
phải xin được công văn của Bộ
gửi
Đại sứ quán Việt
Nam tại Maxcơva về việc
này. Sau đó liệu phòng
quản lý lưu học sinh - thực tập
sinh có đồng ý cho tôi đi
không? Nếu có thì họ sẽ
cấp cho tôi giấy giới
thiệu sang phòng lãnh sự để tôi
được cấp thư gửi
lãnh
sự quán Pháp đề nghị
được cấp visa. Tôi gửi giấy
mời kèm đơn xin về Hà Nội. Vợ tôi đem các giấy tờ
đó lên Bộ Đại học xin phép
cho tôi. Các bác ở Bộ vặn vẹo
là tại sao Pháp mời mà người
mời lại có tên Việt
Nam. Vợ tôi giải thích đây
là nhà khoa học Việt kiều rất
nổi tiếng trong
ngành của tôi. Các
bác lập tức nghi vấn quan hệ giữa
tôi và ông Nguyễn. Tôi phải
viết thêm vài lá thư để
giải thích. Sau này
ông Nguyễn hỏi tôi: 乬Hay là họ đã
cho tên
tôi vào một quyển sổ bìa đen
nào rồi?乭 Cuối cùng
thì tôi
cũng được Bộ Đại học cho
phép. Tất cả chỉ vẻn vẹn
có một dòng telex mà ở
phòng lãnh sự người ta phải
tìm vài lần mới thấy. Trưởng
phòng quản lý nghiên cứu
sinh - thực tập sinh lúc đầu không
chịu cho tôi đi, lấy lý do là
tôi sang đây để
nghiên cứu khoa học chứ không phải
để đi chơi Paris.
Tôi lại phải
đi Maxcơva mấy lần nữa mang theo copies các công trình
nghiên cứu của tôi để chứng
tỏ cho anh ta là tôi đã đạt
được kết quả tốt trong
nghiên cứu, cam đoan sẽ bảo vệ
được luận án TSKH đúng thời
hạn. Sau các cửa ải
của nước Nam, tôi còn phải xin được
dấu của công an
Maxcơva cho phép tôi xuất cảnh. Khâu này cũng rất lâu.
Tặng bà làm giấy tờ
một hộp chocolate có thể làm tiến
trình
nhanh hơn chút ít, nhưng chocolate hồi
đó không dễ mua tí nào.
Nhiều khi
phải xếp hàng dài hàng giờ
mới may ra mua được mỗi người
một hộp. Kế đến là
khâu xin visa tại Đại sứ quán
Pháp và visa các nước tôi sẽ
quá cảnh là Ba Lan,
Đông Đức, Tây Đức, và
Bỉ, vì hồi đó tôi đã
chọn giải pháp sai lầm là đi
tàu
thay vì đi máy bay để tiết kiệm
vài đồng rup.
Ấn tượng nhất
có lẽ là màn xin visa quá cảnh
CHLB Đức. Tôi đến Đại sứ
quán Tây Đức khá sớm vào
một buổi sáng tháng Hai giá
rét – quãng giáp Tết nguyên
Đán ở Việt
Nam.
Cứ tưởng là sớm, nhưng khi
tôi đến nơi thì đã thấy
một hàng dài người
đứng chờ trên tuyết lạnh.
Nhiều người phải nhảy tưng
tưng lên cho khỏi cóng. Đến đúng giờ, một
người Đức trẻ tuổi
đi ra mở cổng. Anh ta ăn mặc rất
lịch sự, trông cứ như người
mẫu thời
trang: áo khoác ngoài dài bằng dạ
đen, khăn sa-tanh trắng quàng cổ, giầy
đen
đánh xi bóng nhoáng, khác hẳn
đám đông nhếch nhác đứng
đợi bên ngoài trong đó
có tôi. Anh ta vẫy tay ra
hiệu rồi nói to bằng tiếng
Nga: 乬Tất cả trật
tự xếp hàng đi theo
tôi!乭 Nói thế nhưng
họ chỉ cho từng tốp độ mười
người vào
một lần. Đám
đông chạy ào vào cửa. Một đám người đã
đánh mất sự tự kiềm chế
thì thật đáng ngại.
Họ chen lấn xô đẩy,
mắng mỏ nhau, bất chấp tiếng kêu
của
một vài 乬Ngô Thời Sỹ乭: 乬Các đồng chí,
chúng ta đừng làm mất thể diện
của dân tộc Nga!乭 Mặc,
thiếu
một chút nữa là họ đánh nhau
chỉ vì không chịu ai là người
đứng trước ai đứng
sau. Sau khi xếp hàng lấy được
số trong một ngôi nhà gỗ, người
ta lại phải
xếp hàng nối đuôi nhau, dẫm lên
tuyết nghe lạo xạo, đi theo
người trẻ tuổi sang một ngôi nhà
thứ hai để nộp hồ sơ. Tôi có
cảm giác như mình đang đi trong
trại tập trung. Sau
này khi đã đi nước ngoài
nhiều, tôi mới nhận thấy đại
sứ quán của mỗi nước đúng
là bộ mặt, phản ánh trình
độ văn minh của nước ấy.
Cách
thức làm việc của nhân viên
toà lãnh sự như thế nào thì
cách làm việc của cả nước
đó cũng y như thế. Tuy nhiên,
trong cái buổi sáng tháng Hai
đó, quan sát này đã bị
cái nỗi mặc cảm: 乬Chắc bè lũ tư
bản Tây Đức
cố tình làm thế để hạ
nhục người Nga乭 phần nào lấn
át đi.
Cuối
cùng tôi cũng có được tất
cả các visa cần thiết: thị thực
xuất cảnh của Liên
Xô, visa nhập cảnh của Pháp, visa
quá cảnh của Ba Lan,
CHDC Đức, CHLB Đức, và Bỉ. Té ra
mua vé tàu đi tư bản cũng không
đơn giản tí
nào. May sao tôi cũng mua
được nhờ sự giúp đỡ
của bộ phận hợp
tác quốc tế của viện. Như
vậy là từ khi nhận được
giấy mời chính thức
vào tháng 9 năm 1988 đến khi tôi
lên tàu sang Paris
vào tháng 3
năm 1989, tất cả thủ tục giấy tờ
đã ngốn hết 5 tháng trời chỉ
để chuẩn bị cho một
tháng ở Paris!
Ngày lên đường sao mà
háo hức. Tôi đã sắm hẳn
một cái túi da
mới có bánh xe kéo
đồng thời giắt túi 200 USD giành
giụm
để 乧 mua quà cho vợ con lúc đó
ở Việt Nam!
Thời
đó 200 USD là một món tiền lớn
vì 乬lương乭 thực tập sinh cao cấp
như tôi chỉ có
120 rúp hàng tháng. Nếu đổi theo giá ngân hàng nhà
nước
Xô-Viết thì được 150 USD, nhưng
thực chất theo giá chợ đen thì
chỉ có 30 USD.
Toa nằm chật và tối.
Đối diện với chỗ tôi ngồi
là một cô gái
Nga có bộ tóc vàng hoe, mặt
đầy tàn nhang. Trong suốt hành trình
3 ngày 2 đêm đến
tận Paris, cô nàng cứ chốc chốc
lại mở sắc đeo vai ra đếm lại
tiền bên trong, mặc
dù cái sắc luôn luôn ở trên
mình cô ta kể cả khi cô ngủ. Sau 6
giờ đồng hồ tàu
đến Brest – thành phố biên giới cửa
ngõ của Liên Xô (nay thuộc Bạch Nga)
sang
Ba Lan. Tàu dừng
lại để đổi bánh.
Hệ thống đường sắt của Liên
Xô được làm với độ
rộng khác kích thước của quốc
tế,
nghe nói để phòng nhỡ khi chiến tranh
với các nước láng giềng có
xảy ra thì kẻ
địch sẽ không thể dễ dàng
sử dụng đường sắt để
xâm nhập thành trì của CNXH. Các
cảnh sát hải quan Nga xuất hiện. Họ bắt tất cả khách đi
tàu đứng
ra ngoài hành lang. Sau đó họ vào
từng cup-pê, đóng cửa lại rồi
gọi từng người
vào để hỏi. Họ
hỏi như hỏi cung với một bộ mặt
乬hình sự乭
và ánh mắt 乬hình viên
đạn乭. Vừa hỏi họ vừa
đưa tay
lần lần sờ nắn các mép
giường, mép rèm cửa để xem
có gì đó giấu ở trong không.
Tôi bị một tay thẩm
vấn viên như vậy tịch thu 200 USD.
Anh ta còn suýt giữ luôn
hộ chiếu của tôi, chỉ đưa
lại sau
khi tôi ký vào tờ giấy chịu cho anh
ta lấy tiền. Ở đầu
toa có người to tiếng. Té ra đó là một khách
ngoại quốc
khác bị hải quan hành, đang gân
cổ cãi lại. Tôi
thấy họ
dẫn anh ta xuống tàu. Một giờ rưỡi sau tàu chuyển
bánh, tôi không thấy anh ta quay
lại. Tôi hỏi cô gái
cùng khoang có bị làm sao với tiền
của cô ta không. Cô
ta kiêu hãnh nói rằng cô đã
có giấy của ngân hàng Xô Viết
cho phép mang đi.
Tôi đâu biết được lại
phải có giấy như vậy! Mà chắc
gì họ đã cấp cho tôi vì
tôi
đâu phải là công dân Liên bang
Xô Viết như cô ta hay Mayakovsky. May sao, sau
khi từ Paris trở về Maxcơva, tôi
được làm quen với một phiên
dịch tiếng Việt người
Nga, rất quý người Việt
Nam. Anh này có quan hệ
tốt với một văn phòng 乬đặc
biệt乭
trong điện Kremlin. Một
hôm anh ta gọi điện cho tôi và
nói rằng cứ đáp tàu lên
Brest, vào đồn biên phòng, nói
tên mình ra, là 乬sẽ tìm thấy cái mà anh muốn
tìm乭.
Tôi đã làm như anh ta nói và
người ta đã trả lại tôi 200 USD,
mà không bắt tôi
xuất trình bất kỳ một giấy tờ
gì kể cả hộ chiếu!
Các
chặng khi vào Ba Lan, ra Ba Lan, vào Đông
Đức, đều có cảnh sát và
hải quan lên
kiểm tra tuy không lâu và không kỹ
như giữa Nga và Ba Lan. Ranh
giới giữa Đông và Tây
Berlin là một 乬vành đai trắng乭
bề rộng dễ đến cả cây số,
giăng dây thép
gai. Hàng
rào dây thép gai này
nghe nói dài tới 155 km. Cách đó
không xa là tường
Berlin - biểu tượng của
sự ngăn cách giữa hai thế giới,
của 乬chiến tranh lạnh乭.
Phần giáp vành đai phía
Đông Berlin là những tòa nhà cũ
kỹ, bỏ không, kính cửa sổ vỡ
lỗ chỗ, bên trong
đen ngòm. Tàu chạy từ
từ rồi dừng. Các cảnh sát
Tây Đức
xuất hiện cùng với chó
bẹc-giê. Họ chỉ kiểm tra
hộ chiếu rất
nhanh rồi đi xuống. Nhanh tới mức
mà tôi quên khuấy cả việc tự
nhủ thầm
câu thơ của nhà thơ Xô-Viết!
Chặng kiểm tra cuối cùng
là khi
tàu vào Tây Đức. Từ đó
đến Paris không thấy ai vào
kiểm tra hành lý nữa. Chỉ thấy cảnh sát vào
đóng dấu lên hộ chiếu rồi
rút lui nhanh như
khi họ xuất hiện. Cũng
không thấy rõ đâu là biên
giới.
Tàu cứ chạy xình
xịch. Tên nhà ga lần lượt
hiện qua cửa
sổ toa tàu. Khi tên bằng chữ Đức
bỗng được thay thế bằng chữ
Pháp thì mới ớ ra
là mình đã sang nước Bỉ.
Các nhà ga trông không còn vẻ
tiêu điều như ở Ba Lan
và Đông Đức. Nhiều quảng
cáo màu sắc, ánh đèn lung linh.
Khách trên sân ga ăn mặc trông đẹp
đẽ, mặt mũi tươi tỉnh. Thời
tiết cũng chuyển
dần từ gió tuyết và rét
mướt sang trời xanh mây trắng khi đi
về phía Tây.
Paris – Gare du
Nord
Đây rồi bến cuối cùng:
Paris – Gare du Nord (Nhà ga phương Bắc).
Tàu vừa dừng bánh tôi
đã thấy ông Nguyễn trên sân ga
đang chạy tìm
toa của tôi. Từ đằng xa tôi
thấy một người đàn ông và
một người đàn bà đẩy
một chiếc xe dùng
để chở hành lý tiến lại.
Tôi nhận ra
chú và thím tôi - những người
họ hàng mà cho đến lúc
đó tôi chỉ được biết
đến
qua các tấm hình, các bức thư hiếm hoi, và đặc
biệt là
qua các câu chuyện kể đã thành
huyền thoại của bố tôi.
- Đăng
đấy phải không? Giống bố quá!
– thím
tôi nói.
Chúng tôi gặp nhau mừng rỡ
vô cùng. Cái giây phút ấy,
tôi bỗng
thấy bao nhiêu rào cản hữu hình
và vô hình được dựng lên
trong mấy chục năm qua
đột nhiên sụp đổ tan tành.
Tôi ngồi xe ông Nguyễn
dẫn
đường. Xe chú thím tôi bám
đuôi theo sau. Ông Nguyễn
không đi theo đường
ngoại vi. Ông cố ý chọn con
đường
đi xuyên qua Paris để tôi nhìn thấy các danh
lam thắng cảnh của thành phố. Sông
Seine,
nhà thờ Đức Bà, tháp Eiffel,
boulevard des Champs Elysées, Khải hoàn môn,
bảo
tàng Louvre, điện Tuilerries,乧 - những
địa danh tôi đã đọc trong Victor
Hugo,
Honoré de Balzac, Gustave Flaubert, Alphonse Daudet, Guy de
Maupassant, Hector
Malot, v.v., đã nhìn thấy, nghe thấy
và cảm thấy qua vô số các tấm
hình và bưu ảnh,
lời kể của bố mẹ tôi, các
bài hát của Tino Rossi, Edith Piaf, Yves Montand,
Charles
Aznavour 乧, và trong các quyển sách học
tiếng Pháp thời thơ ấu của tôi
- nay lần lượt
hiện ra lồng lộng trước mắt
tôi dưới ánh mặt trời tháng Ba
rực rỡ.
乬Paris, tu n乫es pas pour moi une
découverte, mais un
souvenir.乭
(Paris, đối với tôi
Nàng không phải là một phát
hiện,
mà là một hoài
niệm.)
Cố giáo sư Nguyễn
Mạnh Tường – nguyên thày học
của
bố tôi – đã viết như vậy
khi ông lần đầu tiên đặt
chân tới Paris. Ông
là người duy
nhất đã giành 2 bằng tiến sỹ
luật khoa và tiến sỹ văn chương
tại Đại học Montpellier
năm ông mới 23 tuổi - một kỷ lục
mà cho đến tận bây giờ cả
người Pháp chính gốc
cũng chưa ai phá nổi.
Cité
Universitaire
Tuần
đầu tiên tôi ở Cité Universitaire -
khu học xá của Đại học Paris, nơi
bố tôi đã
từng sống gần 40 năm trước
đó, khi ông là sinh viên toán
Đại học Sorbonne. Khu học xá bề ngoài trông
vẫn giống như trong các bức ảnh
chụp cũ kỹ
của bố tôi, kể cả cách tỉa
cây trong vườn. Hàng
ngày
tôi đáp tàu đến viện
nghiên cứu. Ngày đầu đến
viện tôi lấy làm lạ vì ra
vào viện rất tự do, không hề
có cổng sắt với công an súng
lục kè kè đứng xét thẻ
như ở viện tôi làm tại Nga, mặc
dù đây cũng là viện nghiên
cứu vật lý hạt nhân.
Buổi thuyết trình của tôi
về cộng hưởng khổng lồ lưỡng
cực
trong hạt nhân nóng có khá
đông người nghe, trong đó có
cả những chuyên gia
hàng đầu về chuyên ngành hẹp
này. Có người trong
số họ
nay đã qua đời. Sau buổi thuyết
trình một giáo sư vật lý Mỹ,
cũng là
khách thỉnh giảng như tôi, nhận
xét ngoài hành lang: 乬Anh học tiếng Anh ở
Nga hay sao mà phát âm
tiếng Anh giống như người Nga vậy!乭
Tôi rất xấu hổ vì
lời
nhận xét này. Tôi
hoàn toàn tự học tiếng Anh ở
Việt Nam. Thế
nhưng, sau một
thời gian khá dài sống ở Nga, tôi
chỉ được nghe phần lớn là
thứ tiếng Anh của
người Nga nói với 乬a乭 thành 乬e乭, 乬h乭
thành 乬kh乭, 乬c乫alculate乭 thành
乬calcul乫ate乭乧 Nghe cái gì thì sẽ
phát ra theo như cái ấy.
Nghe sai thì nói cũng sẽ sai,
nhầm lẫn. Cũng may là cuối
cùng số phận đã cho tôi
được nghe thứ tiếng Anh tử tế.
Bây giờ sau nhiều năm đi
thuyết trình tại các hội thảo
quốc tế ở châu Âu, Hoa kỳ, Ấn
độ, Trung Hoa và Nhật
Bản, phát âm tiếng Anh của tôi, tuy
còn xa mới được như người Anh
hay người Mỹ,
dứt khoát đã không còn là
乬tiếng Anh của người Nga乭 nữa.
Sau một tuần tôi ở tại
Cité Universitaire, chú thím tôi gọi
tôi đến
nhà mình ở để chú tôi
có dịp hàn huyên mỗi tối sau khi
tôi đi làm ở viện về.
Chú là em ruột của bố
tôi, nguyên là dược sỹ,
trước đây mở hiệu
bán thuốc tây ở Hải Phòng.
Trong cải cách ruộng đất
(1953 – 1956) gia đình thím bị quy
là địa chủ. Ông
cụ
thân sinh ra thím tự vẫn. Thím vô cùng đau khổ và
lo sợ.
Một ngày năm 1959, chú cùng thím,
lúc đó bụng đang mang đứa con
thứ tư, dắt
theo 3 đứa con, đứa lớn nhất lên
6, đứa bé nhất lên 2 còn phải
bế trên tay, lên
thuyền ra biển vượt tuyến vào Nam,
bỏ lại toàn bộ ngôi nhà và
hiệu thuốc tại Hải
Phòng. Vào Sài Gòn
chú tiếp tục hành nghề dược
sỹ bán thuốc
tây. Năm 1974 gia đình chú
thím tôi di cư sang Pháp. Chú mở
hiệu thuốc ở
Paris, có thím phụ giúp, nuôi 4 con
ăn học. Đến
nay 4 người em họ tôi đều đã
an cư lạc nghiệp, lập gia
đình, sinh con. Tất cả
các cháu đều là Việt
Nam 100%. Khi
tôi sang
Paris, chú đã nghỉ hưu, giao lại
hiệu thuốc cho con trai thứ quản lý. Những chuyện đó khi gặp
tôi mới được biết. Còn thì trước đây, khi
lớn lên, qua bố mẹ tôi, tôi chỉ
biết mình có
một người chú làm dược sỹ
trong Nam. Như
thế đã đủ để
có một 乬vết乭 trong lý lịch, mà
cho đến khi vào đại học, mỗi
lần khai tôi lại phải
viết 乬chú
đã trốn đi Nam, đến nay không
có liên hệ乭.
Tôi
giành tất cả các ngày cuối
tuần để đi chơi Paris, lên tháp
Eiffel, thăm Louvre,
musée d乫Orsay, bảo tàng Marmottan, Trung tâm
Georges Pompidou, bảo tàng
Picasso, đồi Monmartre, điện
Versailles, v.v. Ở Louvre tôi vội vã đi
tìm nàng La Joconde huyền thoại. Trái
với những gì tôi nhìn thấy trong
các album và phiên bản tranh đắt
tiền, bản gốc
trông bé nhỏ, tối tăm vì bị che
kính và lại treo trong một chỗ không
sáng lắm để
bảo vệ. Tôi phải len mãi mới
vượt qua được đám đông
du khách mà phần lớn là người
Nhật đang xúm xít trước bức
tranh, để lại gần dí sát mắt
coi thử. Mặt nàng Mona Lisa vàng vàng,
như có khói đen che phủ ở
trên.
Quan sát của tôi không được
lâu, vì chốc chốc tấm kính che
lại lóe lên phản chiếu
ánh đèn flash từ máy ảnh của
một du khách nào đó sau lưng
tôi chụp trộm bất chấp
quy định của bảo tàng cấm chụp
ảnh dùng đèn.
Lâu
đài Chenonceau (trái) và Chambord
(phải)
Một ngày thứ
Bảy đẹp trời, ông Nguyễn lái
xe hơi đưa cả tôi và
chú thím tôi đi thăm vùng lâu
đài sông Loire - một trong
những danh
lam thắng cảnh đẹp nhất nước
Pháp, ở về phía nam
Paris. Xe 乬Peugeot乭 của ông Nguyễn chạy
vù vù trên xa lộ. Lần đầu
tiên trong đời tôi được ngồi
xe hơi chạy trên
đường
cao tốc. Thím tôi thỉnh thoảng lại
nói: 乬Ái
chà, xe kia nó còn đi
nhanh hơn mình!乭 khi có chiếc
xe nào đó phóng vượt lên
phía trước bên trái chúng tôi.
Dần dần
các toà lâu đài hiện ra xa xa
trên những cánh đồng xanh lục
trải dài tít tắp
bên dòng sông Loire lấp lánh dưới
ánh mặt trời. Chúng tôi thăm hai tòa lâu
đài là Chenonceau và Chambord, rồi
dừng xe ăn trưa tại một restaurant.
Đến phần
tráng miệng, người phục vụ mang ra
một mâm pho-mat rất nhiều loại để
chúng tôi
chọn. Thấy tôi lúng túng, ông
Nguyễn hóm hỉnh nói: 乬Pho-mat nặng mùi mới ngon đấy
nhé!乭
Thấm thoắt ngày về cũng
đã đến. Tôi bắt tay
chú, ôm hôn thím tại sân ga
rồi lên tàu. Tàu chuyển bánh
rồi tôi thấy chú thím
vẫn còn đứng trên sân ga vẫy
tay theo tôi. Tàu chạy về phía
Đông. Ánh mặt trời dần
dần biến mất nhường
chỗ cho các đợt gió dài cuốn
theo tuyết ướt bay sàn
sạt
trên mặt ruộng. Một tháng
trôi qua như một giấc mơ. Chỉ có những bức ảnh chụp
những ngày tôi ở
Paris nhắc cho tôi biết
đây là chuyện có
thực. Thế là 60 năm sau bài thơ
của Mayakovsky, tôi mở cặp lấy giấy
bút
võ vẽ viết bài thơ sau đây trong
lúc tàu chạy trên đất Ba Lan:
Về đây lạnh lẽo
vô cùng,
Gió xanh
thổi trắng một
vùng tuyết rơi.
Nhìn nơi thăm thẳm xa
xôi,
Paris hoa
lệ chân
trời ngàn mây.
Nhớ nhà chú thím
Créteil
Bên bàn đầm ấm xum
vầy hôm nao;
Nhớ tòa tháp sắt cao
cao,
Chú cùng thím
đứng bên đào trổ
bông;
Nhớ xanh xanh biếc cánh
đồng,
Đường
êm xa lộ, dòng sông,
lâu đài.
Nỗi lòng
ai thấu chăng ai?
Nhà ga
phương Bắc và hai
bóng hình.
Cũng cùng trong một gia
đình
Mà nay ly
tán mỗi mình mỗi
phương.
Bao giờ sung sướng quê
hương,
Bao giờ rộng rãi con
đường Tự Do,
Bao giờ đất nước
ấm no,
Anh em gặp mặt chuyện
trò vui sao!
Giật mình tỉnh giấc
chiêm bao,
Trong lòng
để nói còn bao
nhiêu tình.
(4 tháng 4 năm 1989)
Chuyến đi đầu tiên của
tôi sang một nước tư bản đã
diễn ra như vậy.
Tôi viết trong thư gửi cho
vợ mình: 乬Paris giống như
một cô gái đẹp,
thấy một lần thì nhớ
mãi乭.
Tường
Berlin
tháng 11/1989
Bảy
tháng sau khi tôi rời Paris, ngày 6 tháng
11 năm 1989 người Đông Đức mở
cửa
乬tháo khoán乭 tường Berlin, để
rồi đến năm 1990 họ tự tay dỡ
bỏ toàn bộ bức tường
đó. Nghe nói mỗi một đoạn
tường cao 3m6, rộng 1m2, nặng gần 3
tấn, được rao bán
với giá 359 mác Đông Đức.
Ngày Giáng Sinh 25/12/1989,
tại Berlin
nhạc trưởng
Leonard Berstein chỉ huy dàn nhạc giao hưởng
Berlin
tấu bản
Giao hưởng số 9 của Beethoven, còn có
tên là 乬Bài ca cho niềm sung sướng乭 (Ode
to Joy). Dàn đồng ca đã thay từ
乬sung sướng乭 (freude) trong nguyên bản lời
thơ của Schiller bằng từ 乬tự do乭
(freiheit). Tháng 10 năm
1990 nước Đức hoàn toàn thống
nhất.
Mồng
1 Tết năm 1990 tôi trở về Hà
Nội, sau 11 năm sống ở Nga. Năm 1991
Liên bang Xô
Viết tan rã.
2.
Anh乧
乬Life's but a walking
shadow,
a poor player
That struts and frets his hour upon the stage
And then is heard no more: it is a tale
Told by an idiot, full of sound and fury,
Signifying nothing.乭
(Cuộc
đời chẳng qua chỉ là một cái
bóng đi đi lại
lại, một diễn viên đáng
thương
Huênh hoang
và run sợ trên
sân khấu
Rồi
sau đó không còn nghe thấy gì
nữa: Đó là một câu
chuyện
Được
kể bởi một thằng ngốc, ồn ào
và giận dữ,
Không có nghĩa lý
gì hết.)
trích từ
乬Macbeth乭
W. Shakespeare (1564 –
1616)
Hơn 15 năm đã trôi qua kể
từ chuyến Tây du lần đầu tiên
ấy của tôi. Trong thời gian đó
nghề vật lý đã đưa tôi
tới nhiều
quốc gia. Trong thời gian
đó chữ 乬Tây乭, từ chỗ dùng
để
chỉ Pháp, hay châu Âu, nay đã
được mở rộng để chỉ tất
cả những nước tư bản phát
triển. 乬Đi Tây乭 ngày
nay bao gồm cả đi Mỹ và đi 乧 Nhật
Bản vốn là một trong các xứ sở
của dân da vàng chúng ta. Trong
thời gian
đó thế giới và con người
đã đổi thay rất nhanh. Từ chỗ bị
chia làm 2 phe đối đầu, thế giới
tập trung vào chống khủng bố. Những đoán mò kiểu như
乬thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của
sinh học乭, v.v.
té ra sai trật khấc hết cả.
Khoảng 10 năm trở lại đây internet
xuất hiện
kéo theo cuộc cách mạng
về công nghệ thông tin. Chiếc
máy tính cá nhân đầu tiên
tôi mua khi vừa mới sang Nhật năm 1994
có tốc độ CPU
chỉ 60 MHz, mà giá tới ngót 4 ngàn
USD. Hôm nay tôi đang ngồi
gõ những dòng chữ này trên
một laptop có tốc độ CPU nhanh gấp 25
lần, mà giá tiền
chỉ bằng 1/3. Tất cả các gia
đình thích hoà mạng ở Nhật
đều đã
乬sa-yô-na-ra乭 (tạm biệt) modem từ lâu
để chuyển sang dùng kết nối ADSL
với tốc
độ truyền tới 54 Mbps (megabits/giây),
tức là nhanh 乬dã man乭 luôn, 24/24, vô
tư
thoải mái, chứ không như cái
kiểu mỗi lần tải xuống lại phải
trả thêm tiền theo
kilobytes. Dịch vụ này chỉ
hết khoảng 40 USD mỗi tháng.
Mọi tin tức sốt dẻo, kiến thức kim cổ chỉ cách bạn một
乧 cái nhấn chuột. Loại thư bỏ phong
bì trước kia mất từ 2 tuần lễ
đến cả tháng
trời mới đến được tay
người nhận nay có tên là 乬thư
sên乭, chỉ còn được dùng khi
cần các bản gốc, hay bút tích.
Còn thì người ta dùng thư
điện tử (e-mail) hết cả. Chỉ sau
vài giây thư của bạn
có thể tới bất kỳ điểm
nào 乧 hòa mạng trên thế giới. Con
người ngày nay nhiều
khi không tưởng tượng mình sẽ
sống thế nào nếu không được
乧 nối mạng. Những người làm khoa học
như tôi không mấy ai còn dùng
giấy bóng
(transparencies) và máy đèn chiếu trong
khi thuyết trình nữa. Hầu hết soạn bài của
mình bằng Microsoft PowerPoint (vẫn lại là
Microsoft của đại tỉ phú Bill Gates!), ghi
vào một que nhớ USB to bằng cái bút
máy và lên đường.
Đến giảng đường, chỉ cần
cắm que nhớ vào PC ở đó là
voilà! PC nối với máy
phóng chiếu hình thẳng lên màn
ảnh,
vuông vắn, sắc nét, đẹp đẽ,
lại cử động được như trong
phim vậy.
Các
lãnh sự quán cũng hòa mạng theo. Nhiều
lãnh sự quán nhận làm visa trực
tuyến trên internet. Còn
bình thường thì tất cả các
乬phom乭 (form) đều có thể điền
và in ra từ internet,
sau đó mang đến lãnh sự quán
để làm visa. Đăng
ký hội
nghị, đặt khách sạn, trả tiền,
v.v. tất cả đều được làm
trên mạng, và nhiều khi
bắt buộc phải làm trên mạng.
Lãnh sự quán Anh quốc ở
Tokyo cũng vậy. Trước
khi đến làm visa, tôi cũng đã
có một lần hân hạnh được
mời đến toà đại sứ nước
này dự lễ phong Hiệp sỹ cho một
vị giáo sư danh tiếng người Nhật,
mà tôi từng cộng
tác nghiên cứu vật lý khoảng 10
năm nay. Trong một đại sảnh rộng
lớn với nhiều
đèn chùm rực rỡ, được trang
trí bằng nhiều tác phẩm hội
họa hiện đại treo trên
tường, tôi thấy ông đại sứ
Anh quốc mặc triều phục áo đuôi
én, hai hàng khuy đồng
trước ngực, vai đeo lon có ngù kim
tuyến, hông đeo gươm. Ông
ta cao to hơn tất cả các khách trong
phòng tối hôm đó. Bây
giờ khi nhớ lại,
tôi cứ thấy ông ta giống như một
con công.
Cuối năm
ngoái tôi nhận
được giấy mời thuyết trình
tại hội thảo về cấu trúc hạt
nhân, vật lý thiên văn
và phản ứng tổ chức tại
Đại học Tổng hợp
Surrey ngay sau Tết dương
lịch 2005. Tôi đến Lãnh
sự quán Anh làm visa – visa đi
nước
tư bản thứ 11 trong danh sách của
tôi. Bây giờ tôi chỉ
phải xin phép một nơi duy nhất là
viện nghiên cứu vật lý hoá học
Nhật bản (viện
RIKEN). Cụ thể hơn, tôi
chỉ phải báo việc đi công tác
với ông giám đốc Trung tâm máy
gia tốc của RIKEN nơi tôi hiện làm
việc từ 10
năm nay. Thông thường
ông ta đồng ý sau vài ngày
乬ngâm
cứu", nhưng cũng nhiều khi ngay trong
ngày. Mọi chi tiết còn lại
như tính tiền công tác phí
để chuyển vào tài khoản của
tôi ở ngân hàng, v.v. do
cô thư ký làm hết,
mà làm rất nhanh, luôn luôn vui vẻ.
乬It乫s my job.乭 (Đấy là việc của tôi)
– cô ta nói.
Tôi
đã nhận xét ở trên
là có thể thấy được trình
độ văn minh của một quốc gia qua
cách làm việc của
tòa lãnh sự. Tòa lãnh sự Anh ở
Tokyo cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Họ có 2 bàn
để tiếp khách. Nói cho đúng hơn thì phải
gọi là phòng, vì có cửa
kính ngăn với
phòng đợi. Khách
ngồi ngoài chỉ có thể nhìn
thấy mà
không nghe thấy nhân viên lãnh sự
nói gì với người đang xin visa.
Nhân viên tiếp khách là hai
cô gái Nhật nói tiếng Anh như
người
chính quốc, rất nhẹ nhàng, lịch
sự. Chỉ khi có việc
gì
phức tạp mới thấy một đàn
ông người Anh 乬trạc ngoại tứ
tuần, râu mày nhẵn nhụi
áo quần bảnh bao乭 từ phía trong
bước ra giúp các cô giải
quyết. Thông thường xin visa các
nước phải mất khoảng từ 1 tuần
đến 10
ngày. Visa đi Mỹ trước kia có khi 乬xơi乭 cả
tháng. Thế nhưng đối với visa đi
Anh thì kết quả thật không ngờ:
Sáng nộp đơn,
chiều được ngay! Đặt vé máy
bay lại còn dễ hơn, vì hãng du
lịch làm cho từ A đến
Z, chiều ý bất cứ thay đổi nhỏ
nào của khách như ngày giờ bay v.v.
Sau đó họ gửi
hoặc mang vé đến tận nơi. Lấy vé rồi mới trả
tiền. Có
khi đi về rồi mới trả tiền cũng
vẫn O.K.! Tôi có một ông
乬hãng du lịch乭 như vậy. Đi công tác nước nào
tôi cũng
đặt vé qua hãng ông ta. Thỉnh thoảng ông ta còn tặng
gia đình tôi vé đi xem hòa
nhạc. Dịp cuối năm
nào ông
ta cũng đều không quên mang lịch
tường, lịch bàn in hình các mỹ
nữ năm châu đến
tận phòng làm việc của tôi ở
RIKEN để tặng. Chưa bao
giờ tôi phải than phiền vì dịch
vụ của ông ấy.
Internet cũng đã
乬cứu nguy乭 cho tôi khi
chuyến máy bay của hãng British Airway (BA) sang
London bỗng dưng xuất phát chậm
2 tiếng rưỡi, chẳng rõ vì lý
do gì! Hôm đó là 4
tháng 1 -
ngày làm việc đầu tiên sau kỳ
nghỉ Năm Mới ở Nhật. Sân bay Narita
đông nghịt, xếp
hàng check-in rồng rắn. Cô nhân
viên tại quầy check-in của BA niềm nở
xin lỗi và giới thiệu rằng sẽ
có dịch vụ 乧 uống giải khát
và đánh fax hoặc
telex miễn phí báo tin cho người ra
đón là máy bay đến chậm. Nước
giải khát miễn phí thì quả
là chuyện vặt, nhưng dịch vụ
báo tin thì thật quan
trọng. Nếu không tôi sẽ có
nguy cơ phải tự xoay sở lấy khi
đến London,
vì đại học Surrey còn cách London 50
km. Vì vậy tuy là cô nhân viên
đã ghi lại
số fax của ban tổ chức hội nghị,
tôi vẫn chưa cảm thấy an tâm. May thay, sau khi qua cửa kiểm tra hộ
chiếu để ra cổng đợi lên máy
bay, tôi thấy một khu vực nối
internet. Những điểm nối mạng như
vậy ngày
nay sân bay quốc tế lớn nào cũng
có. Ở sân bay Narita chỉ
cần
100 yên thì có thể dùng Internet
được 10 phút. Nhờ vậy tôi
đã gửi được
e-mail cho ban tổ chức hội nghị, thông
báo mình sẽ đến
London
muộn 2 giờ
rưỡi.
Từ Tokyo sang
London
máy bay bay
mất 12 giờ 25 phút. Giờ London
muộn hơn giờ Tokyo 9 tiếng. Trên máy
bay, thấy có concerto của Liszt do một nghệ
sỹ piano trứ danh biểu diễn trong
chương trình radio, tôi cắm tai nghe định nghe, nhưng
bộ phận radio ở ghế tôi không
hiểu sao bị hỏng. Cô chiêu
đãi
viên người Anh chạy đi báo
người ta chữa, nhưng loay hoay một hồi
mà họ vẫn
không sửa được. Cô ta tỏ ra rất bối rối, xin
lỗi lia lịa,
và hỏi tôi có muốn đổi
chỗ không. Chỗ cô ta
chỉ cho
tôi có mấy hành khách to béo
ngồi cạnh, rất khó đi ra đi vào,
trong khi chỗ tôi
đang ngồi, chỉ có một cô gái
Nhật thanh tú ngồi kề. Lẽ dĩ
nhiên là tôi từ
chối đổi chỗ. Tôi
đọc truyện ngắn của Cao Hành
Kiện và xem
phim. Cũng có vài phim hay, xong truyện
Cao Hành Kiện hay hơn phim乧Đó là
những câu chuyện về thời cách
mạng văn hóa ở Trung Quốc, đầy
oái oăm. Số phận của
từng cá nhân con người, nhất là
trí thức, bị coi như cỏ rác. Tôi
cũng có vài người bạn đồng
nghiệp Trung Quốc. Trong số
họ có những vị giáo sư già,
nay đã nghỉ hưu và một số
giáo sư trẻ, mới được
phong khi họ vừa làm xong thực tập sau
tiến sỹ, tức chỉ độ ngoài 30
tuổi.
Lý do đơn giản là cách mạng
văn hóa ở Trung quốc đã tạo
nên một khoảng trống lớn.
Giới trí thức thiếu hẳn
một thế hệ kế cận. Các ông giáo sư già tôi
quen thường có tác phong khiêm
tốn.
Dường như nỗi sợ sệt xưa kia vẫn còn dư âm lại
trong họ.
Các cậu giáo sư trẻ
thì hãnh tiến. Một
số khá vênh váo sau khi được
bổ nhiệm giám đốc, viện
trưởng. Có cậu có đến hàng
chục học trò. Tôi hỏi: 乬Cậu làm thế
nào hướng dẫn được tất
cả học
trò của cậu?乭. Cậu
ta trả lời: 乬Không sao, chúng nó
dạy lẫn nhau là chính!乭
7 giờ tối máy bay
từ xứ mặt trời mọc hạ
cánh tại phi trường Heathrow của
London - thủ đô của xứ vẫn
tự hào là mặt trời không bao
giờ lặn trên quốc
gia mình. Tuy nhiên hệ thống
thuộc địa của Anh ngày nay đều
đã là các quốc gia độc
lập. Vào tháng Giêng
mặt trời ở
London đã lặn lúc 4
giờ chiều. Trời tối thui. Thủ
tục kiểm tra nhập cảnh
rất nhanh:
-
Ông đến nước Anh làm
gì?
- Dự
hội nghị.
-
Ông sẽ lưu lại bao
lâu?
-
Năm ngày.
-
Ông đến Anh lần này là lần
thứ mấy?
- Đây là lần đầu
tiên.
-
Chúc ông bình an.
-
Cám ơn.
Khi rời khỏi nước Anh
tôi còn biết thêm một chi tiết
là họ hoàn toàn không có cửa
kiểm tra hộ chiếu của người xuất
cảnh. Cứ check-in, gửi xong
hành lý, là ra thẳng cửa
lên máy bay và 乬bye-bye乭. Thế là sau 25 năm sử dụng
tiếng
Anh tôi mới được đặt chân
đến một nơi mà xung quanh tôi
người ta nói tiếng Anh
thứ thiệt - British English. Vừa ra
đến phòng đợi tôi đã
thấy ngay một
thanh niên thấp béo, tay
dơ cái biển đề 乬Professor N.
Dinh Dang乭. Người lái xe taxi
đã biết tôi đến muộn.
Internet muôn năm!
ĐH
Surrey: Austin Pearce Building
(trái) và khu nhà khách cho các
giáo sư thỉnh giảng
(phải)
Đại học Surrey
ở thành phố Guildford, phía tây nam
London, 65 ngàn
dân. Đi xe hơi, nếu không bị kẹt,
mất chừng 35 - 40 phút. Khu trường khá rộng. Các tòa nhà đều mới
và hiện đại. Khu ở
cho các nhà khoa học giáo sư
đến thỉnh
giảng cũng mới được xây cất
cách đây 2 năm, khá tiện nghi.
Nghe nói trường này từng
được Nữ Hoàng Anh tặng
thưởng. Nhóm vật lý hạt nhân ở
đại học này là một nhóm
mạnh, có tiếng quốc
tế.
Người
Anh không gọi giảng đường là
乬auditorium乭 mà là 乬lecture theatre乭. Hội
thảo tổ
chức tại hai lecture theatres như vậy, khá
hiện đại với đầy đủ
máy chiếu
transparencies và cho files từ máy tính.
Người châu Âu và Mỹ thường
bắt đầu bài
thuyết trình của mình với một
câu pha trò để tất
cả cười
ầm lên, giảm không khí căng
thẳng, và rút ngắn khoảng cách
tâm lý giữa diễn giả
và người nghe. Tuy nhiên phong cách
đó thường không áp dụng
được ở Nhật. Người
Nhật cho rằng hội thảo, hội nghị,
diễn văn v.v. là những việc rất quan
trọng,
nghiêm chỉnh. Vì thế pha
trò trước khi bắt đầu hoặc
trong khi đang thuyết trình ở Nhật là
khá 乬nguy hiểm乭 vì hai lẽ. Một là thính giả sẽ hiểu
nhầm bạn, cho là bạn không nghiêm
chỉnh.
Hai là thính giả không hiểu câu
pha trò của bạn vì
khác nhau về văn hóa. Không có
gì vô duyên hơn là pha
trò mà người ta không cười. Tuy
nhiên một trong những câu 乬pha trò乭
buồn cười
nhất lại là của một người
Nhật. Nghe đâu người Nhật này
được mời thuyết trình tại
một hội thảo quốc tế ở nước
ngoài. Anh ta biết rằng người Âu -
Mỹ thường pha trò khi thuyết trình,
nhưng anh ta không biết làm như vậy.
Vì thế anh ta đã bắt đầu
bài thuyết trình của mình như sau:
乬Tôi thành thật xin
lỗi quý vị vì tôi không
có truyện gì để gây cười
cho quý vị cả!乭 Toàn hội
trường đã lăn ra cười vì câu
nói chân thành đó của anh. Trong lúc tôi đang thuyết
trình, một trục trặc nhỏ cũng
xảy ra.
Mấy cái hình động đậy
được dùng để minh họa các
cộng hưởng khổng lồ trong hạt
nhân của tôi bỗng dưng chuyển
động như mắc chứng co giật. Tôi
đành nói với khán
giả: 乬Có lẽ
các cộng hưởng khổng lồ của
tôi còn chưa hết say máy bay!乭 Câu nói đó cũng làm cho
cả
hội trường cười ầm, và sau
đó trở nên chăm chú lắng nghe
hơn.
Ngoài
nội dung khoa học, những người hay đi
dự hội nghị thường đánh
giá chất lượng hội
nghị ở khâu tổ chức, bao gồm cả
chương trình giải trí và
đồ ăn. Các hội nghị ở các
nước phát triển thường
được tổ chức rất tốt vì
tất
cả các mặt nội dung, chương
trình v.v. đều rất chuyên
nghiệp. Các hoạt động
giải trí cũng hấp dẫn, và
đồ ăn thường sang
trọng và
ngon, kể cả ở Anh quốc, nơi nhiều
người hay nói là đồ ăn
không được hấp dẫn lắm,
nhất là đối với khẩu vị
của dân châu Á như tôi. Tại bữa tiệc
của hội thảo lần này, chúng
tôi được tham quan vườn nho ở
Denbies đồng thời là
nơi cất rượu vang lớn nhất
nước Anh, có chất lượng đất
trồng nho tương đương xứ
Champagne ở Pháp. Tại đây
chúng tôi được thưởng thức
rượu vang và ăn thịt
hươu - thịt hươu thật hẳn hoi
chứ không phải thịt 乬hiêu" mà
tôi đã từng
乬được ăn乭 nhiều lần trong
đời! Tuy nhiên cách chế biến
thịt hươu của họ khá giản
dị, cũng na ná như
họ làm thịt bò hầm vậy, thêm
một ít
cà-rốt và khoai tây non để
nguyên cả vỏ bày xung quanh. Món
này không gây ấn tượng gì
đặc biệt cho mấy người Trung
quốc. Cái
乬gu" dịu nhẹ ngay cả trong ăn uống của người
Ăng-lê xem ra khác hẳn khẩu vị
của các đại biểu xứ sở của
Hồng Lâu Mộng. Nghe đâu ở
Thượng Hải còn có cả món ăn làm từ 乧 kiến, giá
cắt cổ luôn. Hai đại
biểu Ấn Độ cùng bàn thì
hoàn toàn không đụng đến
thịt. Họ được phục vụ
món ăn riêng cho những
người ăn rau.
Chương trình văn hóa của
hội thảo là một buổi đi xem Aladdin
Pantomime tại nhà hát Yvonne Arnaud ở
Guilford. Nhà
hát này được
xây dựng năm 1965 mang tên nữ nghệ
sỹ Pháp Yvonne Arnaud (1890 – 1958), rất nổi
tiếng ở Anh trong 46 năm liền trong cuộc
đời nghệ sỹ kịch của bà. Aladdin
Pantomime là một vở hài kịch nhại
theo truyện 乬Alađin và cây đèn thần乭
trong 乬Một
nghìn một đêm lẻ乭
. Kịch loại này -
tiếng Anh gọi
tắt là Panto - rất phổ biến vào
dịp Giáng Sinh và Năm Mới ở Anh,
chủ yếu nhằm
vào các khán giả nhỏ tuổi. Trong khi diễn các nghệ sỹ lôi
kéo
khán giả cùng tham gia, nói chuyện
với khán giả. Có
lúc họ nhảy xuống khán phòng, phun
nước vào người ngồi xem. Trẻ con thích thú cười
đùa ầm ĩ乧Có lẽ mọi
người không ngờ rằng giữa
một đám đông như vậy lại
có tới 100 nhà vật lý hạt
nhân cũng đang ngồi cười.
Hội
thảo kết thúc. Tôi tranh thủ ngày
thứ Bảy đi London để xem bảo tàng
mỹ thuật quốc gia (London
National Gallery) và bảo tàng Tate
Britain (Tate Britain Gallery). Đây là hai sưu
tập mỹ thuật thuộc hàng nổi
tiếng
nhất thế giới. Từ ga
Guildford đến ga
Waterloo tàu chạy mất 40
phút. Giá vé khứ hồi khoảng 25 USD,
tức là đắt hơn ở Nhật. Hóa
ra Tokyo vẫn
về một số mặt vẫn còn thua London
trong kỷ lục thành phố đắt
đỏ nhất thế giới.
Đi lại ở London bằng xe buyt và
tàu điện ngầm cũng tiện.
Nhiều xe buyt màu đỏ 2
tầng. Xe taxi
thường có màu đen, trông cổ
lỗ sĩ. Các ga tàu điện
ngầm ở London
có vẻ nhỏ
hơn so với ở Paris hay Tokyo, nhưng không rắc rối như ở
Tokyo.
Big
Ben
Trời như
chiều lòng người. Thay vì thời tiết u
ám đặc trưng của
London, bầu trời hôm nay
bỗng xanh ngắt, đầy nắng với
mây trắng lững lờ trôi. Tôi tản bộ qua cầu
Westminster bắc qua sông Thames, đi về phía
gác chuông đồng hồ Big Ben nổi
tiếng
- chiếc đồng hồ vĩ đại
được thiết kế năm 1858 với
quả chuông nặng 14 tấn và chỉ
bị hỏng có một lần duy nhất
vào năm 1975. Sau đó tôi rẽ phải
đi dọc theo
Parliament
street.
Trước toà nhà của
chính phủ Anh ở Downing street có hai
lính danh dự cầm gươm, cưỡi
ngựa, đội mũ
sắt mạ vàng có ngù lông
đỏ, khoác áo choàng đen, cổ
áo bằng dạ đỏ chói, chân đi
ủng da, đứng gác hai bên. Một người thứ ba đứng
dưới đất, giữa
cửa chính. Cả ba
đều đứng như ba pho tượng, mặc
cho
các khách du lịch chạy đến nhí
nhố chụp ảnh xung quanh. Nhiều khách còn túm lấy
dây cương ngựa để chụp ảnh,
làm con ngựa thấy
bất an, gõ móng lộp cộp xuống
nền đá lát. Tuy
vậy mặt
các lính gác vẫn không hề
biến sắc. Họ từ tốn kéo
khẽ dây cương để con
ngựa đứng đúng vào vị trí
cũ.
London National Gallery
(trái) và Tate Britain Gallery
(phải)
Từ đường
Whitehall
với nhiều
nhà che lấp ánh sáng, tôi tiến ra
quảng trường Trafalgar. Giữa
quảng trường sừng sựng cột
Nelson. Cột này được
dựng
lên để tưởng niệm chiến
thắng của vị thủy sư đô
đốc lừng danh - quận công
Nelson tại trận thủy chiến ở Trafalgar
năm 1805. London
National Gallery hiện ra trắng xóa dưới
ánh mặt trời. Từ một sưu
tập chỉ
gồm 38 bức tranh của chủ ngân hàng
John Angerstein, mà nước Anh đã
đầu tư 57
ngàn bảng vào năm 1824 để xây
dựng một sưu tập quốc gia cho toàn
dân thưởng thức,
National Gallery ngày nay là một bảo tàng
khổng lồ với trên 2300 tác phẩm
hội họa
Tây Âu giai đoạn từ 1250 đến 1900,
chiếm cả một tòa nhà vĩ
đại được xây dựng
năm 1931 trên quảng trường Trafalgar
này. Trong các bức tranh rất nổi
tiếng được
trưng bày ở đây phải kể
đến 乬Chân dung
của
Arnolfini và vợ" của Van Eyck, 乬Venus
và Mars乭 của Boticelli, 乬Hai vị đại
sứ乭
cuả Holbein, 乬Đức
Mẹ Đồng trinh trong núi
đá乭 của Leonardo Da Vinci, v.v. Cuối
cùng tôi cũng đã được
nhìn thấy bức 乬Vệ nữ trang
điểm乭 của Velasquez. Đây là bức tranh đầu
tiên tôi muốn xem khi đặt chân
tới bảo tàng
này. Số là cách
đây 2 năm, trong dịp đi công tác
tại
Tây Ban Nha, tôi có ghé thăm bảo
tàng mỹ thuật Prado ở
Madrid. Velasquez là một trong những niềm
tự hào lớn nhất của xứ sở
đấu bò
tót. Tượng của ông ngự
trị ngay trước cửa chính của bảo
tàng Prado. Thế nhưng trong các gian phòng
mênh mông treo đầy tranh ông ở
đây,
tôi không thấy bức 乬Venus trang điểm乭
đâu cả. Tôi hỏi
một bà nhân viên bảo vệ thì
mới biết
được địa chỉ của bức tranh
này. Bây giờ nguyện
vọng của
tôi đã được thực
hiện. Tôi đang ở trong
London
National Gallery, chiêm ngưỡng thần Venus của
Velasquez không mảnh vải che thân
nằm trước mặt. Cũng thật
thú vị khi tại đây tôi có
dịp kiểm chứng cho
mình Picasso đã 乬đạo họa乭 của
Piero della Francesca
như thế nào. Chắc chắn khi danh họa
Tây Ban Nha này sáng tạo ra các bức
tranh
phong cách 乬cổ điển mới乭của
mình, ông đã bị ảnh hưởng
rất mạnh bởi sáng tác của
danh hoạ Ý thời Phục Hưng. Bức 乬Giáng
sinh乭 do Piero della Francesca vẽ trong khoảng năm
1470 – 1475, tức là cách
đây hơn 5 thế kỷ, trông thật
giống một bức tranh 乬tân cổ
điển乭 của Picasso. Bức
乬Lễ phong thánh cho
Thánh Nicholas乭
do Paolo Veronese vẽ khoảng năm 1528 – 1588
lại có nhiều chi tiết và hòa
sắc ở
áo quần làm tôi liên tưởng ngay
đến tranh của Delacroix (1798 – 1863) sau
này. Người ta gọi đó là
乬tính kế thừa乭 trong nghệ
thuật.
Trong London National
Gallery:
Các học
sinh vào xem tranh
(trái) và 乬Venus trang điểm乭 của
Velasquez (phải)
Bảo tàng Tate
Britain trưng bày hội họa
của Anh từ 1500 đến nay và hội
họa hiện đại quốc
tế. Năm 1897, khi Bảo
tàng
Tate được thành lập, toàn bộ
sưu tập chỉ gồm 65 bức tranh do ông
Henry Tate tặng.
Ngày nay số tác phẩm đã nhiều
gấp 1000 lần (65 ngàn bức), đúng
bằng số dân của
thành phố Guildford! Gây ấn tượng
nhất có lẽ là tranh của J.M.W.
Turner (1775 – 1851). Quý vị chắc
đã nghe danh các họa sỹ tăm
tiếng của
trường phái ấn tượng (impressionism)
Pháp như Renoir, Manet, Monet, Sisley,
Pissaro, v.v. Cũng cần nói thêm là
người sáng lập ra trường Mỹ
thuật Đông Dương
(MTĐD) - tiền thân của Đại học
Mỹ thuật Việt Nam ngày nay - họa sỹ
Pháp Victor
Tardieu, vốn là một hoạ sỹ theo
trường phái ấn tượng. Tranh của
nhiều họa sỹ Việt
Nam tốt nghiệp trường MTĐD, kể cả
bức 乬Thiếu
nữ bên hoa huệ乭 của họa sỹ
Tô Ngọc Vân, chịu ảnh hưởng
khá rõ nét của hội họa
ấn tượng Pháp. Thế
nhưng xem tranh của Turner, quý vị sẽ
thấy
tất cả các yếu tố của hội
họa ấn tượng đều đã
có trong tranh của ông thời kỳ
cuối.
Xem bức tranh 乬Mặt
trời mọc乭 Turner vẽ
năm 1835, tôi không thể ngăn
được ý nghĩ rằng nếu Turner
thêm vào tên bức tranh
của mình chữ 乬Ấn tượng乭
nữa thì đó mới
đích thị là bức khai sinh cho
trường phái này chứ không phải
bức 乬Ấn tượng - Mặt
trời mọc乭 mà Monet vẽ gần
40 năm sau (1872 – 1873) .
 
Bức tranh
乬Mặt trời mọc乭 của
Turner (trái) và 乬Ấn tượng - Mặt
trời mọc乭 của Monet
(phải)
Một
điểm đặc biệt khác các
nước tôi đã đến là
các bảo tàng quốc gia ở Anh, như
London National Gallery và Tate Britain Gallery, đều
được tổ chức rất chu đáo
để
phục vụ toàn dân. Vào
cửa miễn phí. Tất
cả các bức tranh đều có chú
giải lịch sử, nguồn gốc, v.v. khá chi
tiết.
Các thuyết minh viên làm việc rất
chuyên nghiệp, biết nhiều thứ tiếng,
phục vụ
được nhiều đối tượng, kể
cả thuyết minh rất giản dị và vui
nhộn cho học sinh tiểu
học cũng như ra hiệu bằng tay cho người khiếm thính.
Ngoài
National
Museum
và Tate
Britain
Museum,
tôi
còn may mắn được xem một triển
lãm lớn mang tên 乬Thế giới của Dali乭 trưng bầy
các ký họa và tượng của
đại danh họa
siêu thực tại County Hall Gallery ngay bên
bờ sông Thames. Tại
đây lần đầu tiên tôi
được nghe giọng nói của Salvador Dali
phát ra từ một bộ
phim về ông chiếu ngay trong phòng triển
lãm. Khác với đồng hương
của
mình là họa sỹ Picasso nói tiếng
Pháp khá chuẩn, Dali có lối phát
âm tiếng Pháp
mang nặng dấu ấn của người Tây
Ban Nha với các âm 乬r乭 đầu lưỡi
kéo dài. Phim cũng
chiếu các đoạn Dali làm cái
mà ở ta bây giờ đang rất thời
thượng gọi là 乬nghệ
thuật trình diễn乭: Maestro ngồi trước
đàn piano, trên bày đầy các
vật mang dấu
hiệu siêu thực, và làm ra vẻ
đang chơi say sưa. Thực ra, các ngón
tay và cử chỉ của maestro cho
thấy ngay maestro không biết
chơi piano. Tiếng piano phát ra
từ một máy hát.
3.
乧và
Mỹ
乬Is life so dear, or
peace so
sweet, as to be purchased at the price of slavery and chains?
Forbid it, Almighty God!
I
know not what course others may take; but as for me give me liberty, or
give me
death!乭
(Liệu
cuộc sống có quý giá hay hòa
bình có ngọt ngào tới mức
phải được mua bằng giá của
nô lệ và xiềng
xích?
Hãy
ngăn chặn đừng cho điều đó
xảy ra, hỡi Chúa Trời Toàn Năng!
Tôi không biết người
khác chọn con đường nào;
còn đối
với tôi hãy cho tôi tự
do, hoặc là cái chết)
Patrick Henry (1736 –
1799)
Vừa từ Anh quốc trở về, tôi
đã lại nhận được thư
mời dự một hội thảo về vật
lý hạt nhân ở Mỹ. Lại phải
làm visa! Không biết đến
khi nào tôi mới hết phải làm visa!
Bây giờ đã là khá
lắm rồi,
chứ cho đến năm 1998 tôi vẫn còn
phải xin thị thực nhập cảnh để
về thăm chính
quê hương mình. Ôi, sao mà
tôi mong được như mấy người
Nhật như trong
cái lần tôi bay từ
Tokyo sang Rome! Họ chỉ cần dơ hộ chiếu
là nối đuôi nhau đi qua cửa.
Người cảnh sát
cửa khẩu Italy thậm chí không buồn mở hộ
chiếu của họ ra xem, mà chỉ phẩy tay: 乬Please
go!乭
với một bộ mặt tựa như người
đang ngái ngủ. Đến
lượt tôi, anh
ta giật mình đánh thót. Chẳng
phải vì hộ chiếu của tôi 乬dễ
phát nổ như
quả bom乭 hay 乬đầy gai nhọn như một con
nhím乭. Nó cũng chẳng
乬nguy hiểm như một lưỡi dao
cạo乭. Đơn giản là vì hộ
chiếu cùa tôi có màu
xanh lá cây, khác với những quyển
hộ chiếu màu huyết dụ của Nhật.
- Stop!
Please come over here!乭 (Dừng lại đã! Làm ơn lại đây!)
– anh ta nói. Thế rồi
anh ta kiểm tra rất kỹ, lại còn
gọi cả một đồng nghiệp khác
tời bàn tán:
- Vedi,
un Vietnamita dal Giappone! (Xem này, một người Việt
Nam từ Nhật
đến này!) – anh ta nói với
đồng nghiệp bằng tiếng
Ý.
Rồi anh ta
gõ máy tính lạch
cạch để tìm hồ sơ lưu
trữ. Sau đó anh ta
hỏi:
-
Ah,
you worked in Italy before, didn乫t
you?(Có phải ông đã
làm việc ở Italy trước
đây?)
-
Si,
ho lavorato a Catania per un
anno. (Đúng,
tôi đã làm việc ở
Catania một
năm) – tôi trả
lời bằng tiếng Ý.
-
Oppure parla bene Italiano! (Hóa ra ông
cũng nói tiếng Ý được
đấy chứ!) – anh ta nhìn tôi bán tín bán
nghi, rồi cũng đóng dấu vào hộ
chiếu.
Lúc
đó quả thật tôi đã
quên hết thơ của đại thi hào
Mayakovsky.
Dù thế nào đi nữa thì
trước mắt tôi vẫn phải đi
làm visa nếu muốn
ra ngoại quốc. Lần này
toà lãnh sự Mỹ lại còn yêu
cầu
lệ phí visa phải được trả
trước qua máy tự động ATM của
ngân hàng
Tokyo-Mistubishi. Tôi đến chi
nhánh ngân hàng đó tại
thành phố tôi đang sinh sống. Hai phụ nữ nhân viên
ngân hàng đứng cạnh 2 chiếc máy
ATM tựa như lính danh dự trước
điện Buckingham ở
London. Sau khi lịch sự cúi chào
khách hàng, một nhân viên tận
tình hướng dẫn
tôi từng bước để gửi lệ
phí đến tài khoản của Toà
Lãnh sự. Cho đến khi
tôi nhận được biên lai từ
máy, đút vào túi, bà ta lại
cúi rạp xuống chào và
nói: 乬Xin cảm ơn
quý khách (đã ưu ái
sử dụng ngân hàng của chúng
tôi).乭
Đó chỉ là một trong nhiều tiện
nghi, dịch vụ mà ngoại trừ nước
Nhật ra, tôi
không chắc một nước nào khác
trên thế giới, kể cả bên Âu -
Mỹ, có thể có.
Đại
sứ quán Mỹ ở nước nào cũng
có vẻ giống nhau: một tòa nhà
vuông đầy cửa sổ cao
ngật ngưỡng, đứng chềnh ềnh
tại đầu một ngã ba, bao bọc bởi
hàng rào và nhiều
chuớng ngại vật khác. Khoảng chục
cảnh sát Nhật nai nịt đứng canh
chừng rải rác
đầu đường góc phố. Một hàng dài người đang
từ từ chuyển dịch
đi qua cửa kiểm tra vũ khí để
vào đại sứ quán. Trời
cũng rét nhưng vẫn
còn ấm áp hơn rất nhiều so với
cái ngày tôi đi xin visa quá cảnh
Tây Đức ở
Maxcơva 16 năm về trước. Hàng
người này lại ăn
mặc lịch
sự và rất trật tự. Vào trong
sân tòa đại sứ lại phải
xếp hàng một lần nữa để đi
qua cửa chiếu tia X rà
soát như khi lên máy bay vậy. Trong lúc khách xếp hàng,
các nhân viên lãnh sự quán
người Nhật đi
kiểm tra hồ sơ xin visa của từng
khách. Ai làm chưa đúng họ
ân cần hướng dẫn. Ai
làm đúng rồi họ thu
hồ sơ đem vào trong. Sau cửa kiểm tra
bằng tia X,
khách bước vào phòng chờ phỏng
vấn.
Phỏng vấn tôi là một
người Mỹ chừng 30 tuổi, trắng
trẻo, bảnh trai,
sơmi, cà vạt.
-
Ông
là nhà vật lý?-
anh ta vừa
đọc hồ sơ của tôi vừa hỏi.
-
Phải.
-
Thế
photon ánh sáng là hạt hay là
sóng? – anh ta đột ngột bắt
đầu cuộc phỏng vấn.
-
Anh
muốn nó thế nào thì nó như
thế. Theo cơ học lượng tử, photon
có lưỡng tính vừa
là sóng vừa là
hạt
-
Ai là
người đầu tiên tìm ra điều
đó?
-
Louis
De Broglie.
-
Tốt lắm!... Ông nghiên cứu hạt
nhân, vậy có nghiên cứu về các
hạt
quark không?
-
Không,
tôi nghiên cứu vùng năng lượng
thấp乧
-
Tức
là protons, neutrons, neutrinos?
-
Protons
và neutrons thì có. Anh cũng
biết vật lý? - tôi nói.
-
Thế
đã có ai tìm ra hạt neutrino chưa?
Ông có biết không?-
anh ta dai dẳng.
-
Giáo
sư Koshiba ở Kamyokande cách đây khoảng
2 năm đã được giải Nobel về
vật lý vì
đã 乬nhìn乭 thấy hạt neutrino
– tôi nói.
-
Kích
thích tập thể là gì thế nhỉ?
– anh ta vừa đọc được từ
phần các hướng nghiên cứu của
tôi.
- Đó là loại kích thích
do nhiều hạt cùng tham gia tạo nên,
cũng tựa
như một đám đông cùng
chuyển động một lúc
vậy. - tôi
giải thích.
-
Ố,
tôi thích cách liên hệ với
đám đông của ông! –
anh ta nói hào
hứng. Rồi anh ta nhận
xét:
-
Ông
đi nước ngoài nhiều nhỉ!
-
Công
việc của tôi đòi hỏi như
vậy.
-
Rất tốt!
Tôi nghĩ rằng chúng tôi
sẽ cấp visa cho ông. Hôm nay thế là xong. Trong vòng từ 1 đến 3
tuần chúng tôi sẽ gửi visa đến
địa chỉ của ông. Tạm
biệt!
Theo yêu cầu của tôi, anh ta vui vẻ
ký tên và đóng dấu
vào tờ chứng nhận tôi đã
trả tiền lệ phí visa để viện
tôi thanh toán. Tôi nhìn
tên: 乬Robert K. –
phó công sứ Hoa Kỳ乭.
Tại
cửa ra, người bảo vệ Nhật hỏi
tôi có đồ đạc gì gửi
quên chưa lấy như điện thoại
di động, CD player v.v. không (những thứ khi
vào phải gửi lại ở cửa soi tia X), sau đó lịch sự
cúi chào. Mấy bảo vệ
ngoài sân lại chào lần nữa.
Khách nào về họ cũng
cúi
chào như vậy. Hai nền
văn hóa hoàn toàn khác nhau chỉ
cách nhau bởi một lần cửa kính trong
suốt, nhưng là loại kính đạn
bắn không thủng.
Rudyard Kipling (1865 – 1936) - thi sỹ Anh đoạt
giải Nobel văn học năm 1907 –
đã viết trong 乬Bài thơ về
phương Đông và
phương Tây乭 của mình:
Oh, East is East,
and West is West,
and never the twain shall
meet乧
(Ôi, phương Đông là
phương Đông, phưong Tây là
phương Tây,
và sẽ không bao giờ hai phương gặp
nhau乧)
Gần một thế kỷ đã trôi
qua, Kipling chưa bao giờ sai.
Nguyễn Đình
Đăng
Tokyo
28/1/2005